dân Chúa; và thứ hai, mà đây mới là điểm thê thảm, là những điều họ nghĩ,
họ nói và họ làm phản ảnh cái phong cách hành xử của một giáo hội đang
chà đạp lên nội dung tốt đẹp của những lời rao giảng trong Phúc Âm.
-o0o-
Năm 1966, nền Đệ Nhị Cộng Hòa ra đời với tấm giấy khai sinh chính trị đề
tên “chế độ Nguyễn Văn Thiệu”. Để nhận diện chế độ này, ta không thể
theo phương pháp thông thường đặt nặng vấn đề cứu xét các chánh sách,
thẩm định các cơ cấu chính quyền hay phân tích các văn kiện căn bản về
hành chánh và tư pháp, mà trong trường hợp chế độ Thiệu của miền Nam kể
từ 1966, ta phải nhìn thành phần nhân sự lãnh đạo ở thượng tầng cai trị, và
cái thế lực hậu thuẫn chế độ đó ở hạ tầng quần chúng.
Thật vậy, kể từ năm 1954, chính trị miền Nam là một loại chính trị mà lực
vận động chính là nhân sự. Chánh sách, đường lối, sách lược, phương tiện...
đều đã bị Hoa Kỳ âm thầm hay công khai nắm lấy để điều động, cho nên
trong mỗi giai đoạn, với mỗi chế độ, đều có một khuôn mặt Việt Nam tiêu
biểu, đều có một lực lượng Việt Nam nổi bật lên, và chỉ cần xét khuôn mặt
đó, lực lượng đó là ta có thể thấy được chân tướng chính trị và văn hóa của
chế độ này.
Đó là quy luật đặc thù của chính trị miền Nam từ sau 1954.
Chế độ Thiệu cũng không nằm ngoài quy luật đó, cho nên chỉ cần điểm mặt
thành phần lãnh đạo làm việc cho Thiệu và vì Thiệu, chỉ cần lôi ra ánh sáng
thế lực hậu thuẫn cho chính quyền quân phiệt đó là ta có thể xác định được
chế độ Thiệu có phải là một chế độ “Diệm không Diệm” không?
Vậy thì những ai làm việc cho ông Thiệu?
Trong dinh Độc Lập có Cố vấn An ninh Tình báo kiêm Cố vấn Quân sự là
ông Đặng Văn Quang, người con nuôi tinh thần của Bà Ấm, chị ruột Tổng
thống Diệm và là thân mẫu của Giám mục Nguyễn Văn Thuận. Ngoài
những chức vụ chính thức ông Quang còn có những nhiệm vụ bí mật là thiết
lập kế hoạch và phối hợp công tác của các cơ quan chính quyền để triệt phá
các thành phần đối lập với chế độ mà đối tượng số một là Phật giáo. Ông