Chủ tịch Quốc hội thay phiên nhau như Trần Văn Lắm, Phạm Văn Nhu,
Trương Vĩnh Lễ đều là Công giáo, cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu và cả gia
đình cầm quyền cũng là Công giáo.
Nhưng ông Nguyễn Bá Lương chỉ giữ chức Chủ tịch Hạ viện nhiệm kỳ đầu
mà thôi. Qua đến nhiệm kỳ hai, khi tình hình chiến tranh và chính trị trở nên
trầm trọng có thể đe dọa vị trí lãnh đạo, thì Thiệu phải lấy những biện pháp
độc tài để kiểm soát Lưỡng viện chặt chẽ hơn. Và vì cần sự ủng hộ công
khai của định chế này nên ông Thiệu vận động để chức Chủ tịch Hạ viện
vào tay ông Nguyễn Bá Cẩn, nguyên là Phó Tỉnh trưởng Định Tường, và
cũng là một thuộc hạ của Huỳnh Văn Cao thời Cao còn là Tư lệnh vùng IV.
Với một Quốc hội nằm trong tay đa số người Công giáo và người của chế
độ Diệm đang cấu kết với Thiệu như thế, tất cả các dư luật thất nhân tâm
như Luật Báo Chí, Luật Uỷ Quyền, việc hợp hiến hóa cuộc bầu cử Tổng
thống độc diễn... đều đã được dễ dàng và mau chóng thông qua. Đó là
không nói đến những hồ sơ tố cáo tham nhũng, lộng quyền bị Quốc hội dẹp
bỏ trước sự công phẫn của nhân dân và chỉ trích gay gắt của báo chí như các
nhật báo Bút Thép, Điện Tín, Dân Tộc...
Thành phần nhân sự Công giáo và thuộc-chế-độ-Diệm cũ không chỉ nắm
chức vụ lãnh đạo để khuynh loát ngành Lập pháp, mà quan trọng hơn, còn
cả trong ngành Hành pháp: Bộ trưởng Đặc Trách Liên Lạc Quốc Hội nằm
trong tay ông Cao Văn Tường, một người trung thành với nhà Ngô đã từng
được ông Ngô Đình Nhu cho làm Đệ Nhất Phó Chủ tịch Quốc Hội thời Đệ
Nhất Cộng Hòa.
Bộ Ngoại Giao thì do các ông Trần Chánh Thành, Trần Văn Lắm hay
Vương Văn Bắc thay phiên nhau cầm đầu mà ông Thành và ông Lắm ai
cũng biết là thuộc hạ nhà Ngô cũ. Bộ Ngoại giao là một bộ phụ trách việc
vận động quốc tế, tranh thủ dư luận thế giới yểm trợ Việt Nam Cọng Hòa,
nhất là trong giai đoạn phải thương thuyết với Hà Nội và Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam. Nhưng nhìn lại dĩ vãng ta thấy các nhà ngoại giao của
chúng ta chỉ coi sinh mạng quốc gia là trò đùa. Ông Trần Văn Lắm đi phó
hội tại Paris thì chỉ vênh vang lập lại lời tuyên bố “Hòa bình đã trông thấy ở
cuối đường hầm” của Kissinger mà thôi, mặc dầu những điều kiện hòa bình