các Giáo sĩ, nhất là giáo sĩ Huc, Giám mục Retord, Giáo sĩ Libois và Giám
mục Pellerin.
Giáo sĩ Huc trước đã dâng vua Napoléon III một kế hoạch thành lập một
công ty để lo việc chinh phục và khai thác các xứ Cao Ly, Đà Nẵng,
Madagascar; năm 1857 lại dâng một bức thư nhắc lại Pháp-Nam hiệp ước
1857 và sự cần thiết phải thiết lập gấp một căn cứ ở nước Nam. Chính lá thư
ấy đã làm cho chánh phủ vua Napoléon III quyết định đặt một ủy ban để
Nghiên Cứu vấn đề Nước Nam (Commission de la Cochinchine), trong ủy
ban ấy, Giáo sĩ Huc đã tỏ bày ý kiến. Sau khi dâng bức thư kia, Giáo sĩ Huc
được vua vời đến diện yết, và Giáo sĩ đã làm cho vua tin tưởng ở lời nói
mình.
Giám mục Pellerin thì trong các năm 1851, 1855 đã xin chánh phủ Pháp
giúp đỡ các giáo sĩ, giáo đồ đương bị bạc đãi và giết hại. Như ta đã thấy,
năm 1856, Giám mục lén đến Đà Nẵng, gặp thuyền trưởng tàu Capricieuse.
Nhân đó, Giám mục có dự cuộc thương thuyết của Montigny và các quan ta,
rồi về Pháp bày tỏ trước công chúng những cảnh tượng bi thảm mà Giáo hội
ở nước Nam đã phải trải qua. Giám mục có ra trước Ũy ban Nước Nam,
được diện yết vua Napoléon III nhiều lần và dâng lên vua hai tờ điều trần
dài.” (trang 115-117)
Hai tờ điều trần mở đầu cho tàu chiến súng đạn Pháp xâm lăng nước ta.
Tuy nhiên âm mưu xâm chiếm Việt Nam thật ra đã có từ thời giáo sĩ
Alexandre de Rhodes kể từ khi ông ta đến Việt Nam (1624), nghĩa là hơn
200 năm trước.
Ánh sáng của sự thật càng ngày càng được chiếu rọi vào hồ sơ mật trong
các văn khố của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp và đã cho phép các sử gia
xác định âm mưu thôn tính Việt Nam của Thiên Chúa giáo vốn có từ thời
Cố đạo Alexandre de Rhodes chứ không phải dưới thời Pigneau de Béhaine
và Nguyễn Ánh, như một số người chưa chịu nghiên cứu kỹ vẫn bị nhầm
lẫn.
Alexandre de Rhodes đến Việt Nam năm 1624 và vĩnh viễn rời Việt Nam
năm 1645. Thời gian ở Việt Nam ông viết rất nhiều sách giúp người Âu
Châu tìm hiểu tình hình chính trị, địa hình, địa vật, sông núi, sản phẩm, tài