mại quyền thế.
Chức vụ Giám đốc An ninh Quân đội đối với tôi là một chức vụ bạc bẽo.
Tôi vừa bị các sĩ quan tham nhũng, vừa bị các sĩ quan thuộc các đảng phái
đối lập với chính phủ coi là kẻ “hung thần”, là “tay sai của chế độ”; trong
lúc đó thì nhóm Cần Lao cũng coi tôi như kẻ thù chỉ vì tôi đã khinh bỉ ông
Ngô Đình Cẩn ra mặt, tôi bất phục ông Ngô Đình Nhu, và tôi không bao giờ
gặp mặt, khúm núm chầu hầu bà Cố vấn và Giám mục Ngô Đình Thục.
Ngay các dịp lễ, Tết, cúng kỵ của họ Ngô, hầu hết nhân viên cao cấp của
chính phủ và nhiều tướng tá ra Phú Cam để chầu hầu, ngoại trừ tôi. Tôi bị
toàn thể anh em ông Diệm coi như cái gai phải nhổ, nhóm Cần Lao xem
như kẻ thù nên nhất cử nhất động của tôi đều thường bị Cần Lao báo cáo lại
cho ông Nhu. Nếu không có ông Diệm bênh vực và thông cảm thì có lẽ tôi
đã vào tù hay bị mưu hại từ lâu rồi.
Cho đến cuối năm 1958 và còn kéo dài thêm một năm nữa, chế độ Ngô
Đình Diệm quả thật đã bước vào giai đoạn cực thịnh. Dù riêng cá nhân tôi
có một thời gian bị bạc đãi, dù mầm mống độc tài đã bắt đầu xuất hiện, dù
lực lượng Cần Lao tàn độc đã manh nha khống chế sinh hoạt chính trị, và
cuối cùng, dù nền dân chủ tối cần thiết để xây dựng sinh lực lâu dài cho
quốc gia không được thực thi, nhưng những thành quả của chế độ trên mặt
ngoại giao, kinh tế và xã hội cũng đã là những khích lệ lớn cho quần chúng
tiếp tục tin tưởng ông Diệm, tiếp tục nhắm mắt bỏ qua những tội lỗi mà chế
độ đã phạm phải.
Nhưng những căn bệnh ấu trĩ của nền dân chủ này lại có sức tàn phá độc hại
khốc liệt sau này vì thành phần lãnh đạo đã không xem đó như những lỗi
lầm cần sửa chữa ngay, trái lại anh em ông Diệm lại tin tưởng mãnh liệt
rằng đàn áp đối lập, khuynh loát quân đội, áp bức chính trị, trung ương tập
quyền vào gia đình và phe nhóm là những sách lược hiệu dụng để chống
Cộng và bảo vệ quốc gia. Họ không biết rằng để đối đầu với Cộng sản, sách
lược trường kỳ và bảo đảm nhất là phát triển và khai dụng sinh lực của dân