xem đó như một sách lược quan trọng khả dĩ có thể công phá được loại
chiến tranh du kích của Cộng Sản tại chiến trường Việt Nam.
Và cũng nói cho thật đúng thì “Ấp Chiến Lược” không phải là một phát
minh mới mẻ lạ lùng gì đối với nhân dân Việt Nam. Trong quá trình dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta, nhân dân và triều đình của nước ta đã biết
rào làng, lập đoàn tuần canh, cổ súy ý thức làng xã để đối phó với giặc
cướp, với quân xâm lăng và với cả sự hà khắc của thiên nhiên nữa. Lũy tre
gai góc và rậm rạp đã là những chiến lũy thiên tạo vững chắc, đoàn tuần
canh siêng năng đã là những cán bộ quân sự minh mẫn và nhiệt tình; hội
làng, lễ đình, tế thần đã là những sinh hoạt văn hóa chính trị nuôi dưỡng ý
thức và khả năng đề kháng của xóm làng Việt Nam. Trong cuộc chiến
Pháp–Việt (1945–1954), Việt Minh đã thiết lập tại Bắc Việt những làng
chiến đấu để chận đứng những chiến dịch càn quét của quân đội cơ giới
Pháp và nhiều khi gây tổn thất nặng nề cho đoàn quân thực dân viễn chinh.
Dưới chế độ vua Bảo Đại, các Thủ hiến Phan Văn Giáo và Trần Văn Lý
cũng đã xây dựng một hệ thống phòng thủ tại miền Trung bằng các làng
Hương Vệ để bảo đảm an ninh cho vùng nông thôn Trung Việt.
Cho nên nói rằng ông Nhu là “cha đẻ” của chính sách Ấp Chiến Lược như
bộ máy tuyên truyền của chế độ vẫn thường rêu rao, là một sự bịp bợm ấu
trĩ và đầy trào phúng. Ngay cả chính sách này, lúc được Hoa Kỳ đề nghị,
cũng đã từng bị ông Nhu đả kích kịch liệt [9]. Mãi cho đến khi tình hình an
ninh tại nông thôn trở nên tồi tệ hơn và nhất là khi Hoa Kỳ chịu tháo khoán
một ngân quỹ lớn lao, ông Nhu mới chấp thuận thực hiện chính sách này và
thêm vào đó một mớ ý niệm “tam túc, tam giác” cho quốc sách Ấp Chiến
Lược có vẻ có một triết lý chính trị riêng, để tỏ ra mình cũng có một lý
thuyết chống lại chiến tranh nhân dân của Cộng Sản.
Với một chủ thuyết chỉ đạo lai căng nửa Mỹ nửa Việt như thế, cho nên khi
biến thành hành động cụ thể để đi vào thực tế Việt Nam, “quốc sách” ấp
chiến lược đã trở thành một mối họa cho nhân dân, và trở thành (một lần
nữa) nhược điểm lớn của chế độ cho kẻ thù khai thác đánh phá.
Hai yếu tố lớn làm thui chột quốc sách này, như thường lệ, vẫn là thứ nhất,
óc chủ quan nặng lý thuyết của ông Ngô Đình Nhu, và thứ hai là bộ máy