duyên nhân quả của vận nước trong sự tuần hoàn biến dịch của vũ trụ và
nhân sinh, mà cũng như quá trình biến thiên lịch sử của các quốc gia khác,
phải có những triều đại bạo ác ra đời trước khi quê hương và dân tộc bước
vào chu kỳ tươi sáng mới của tương lai. Ta phải có chế độ Ngô Đình Diệm
thì mới có ngày 30 tháng 4 năm 1975 để cho Cộng Sản có cơ hội quét sạch,
quét hết những rác rớm tàn dư lịch sử của các chế độ ngoại thuộc kể từ ngày
Pháp đánh vô Đà Nẵng cho đến ngày Cộng Sản thống nhất Việt Nam. Và ta
phải có ngày 30 tháng 4 năm 1975 để bộ mặt lỗi thời và bất lực của Cộng
Sản Hà Nội lộ diện thì dân tộc mới có cơ hội vùng lên viết trang sử mới sau
này.
Mười sáu thất bại chính trị, ngoại giao, kinh tế, xã hội của chế độ Diệm đã
được tôi đề cập trong hai chương vừa qua, tuy không ồn ào tiếng súng như
trên chiến địa, nhưng chính chúng lại là những yếu tố mở đường cho các
thất bại quân sự máu đổ xương rơi kể từ năm 1960 mà tôi sẽ đề cập trong
chương tiếp theo. Thật vậy, vì chính trị điều động mức độ và bản chất của
chiến sự, nên những thất bại chính trị của chế độ đã dĩ nhiên kéo theo những
thảm bại về quân sự trong một cuộc chiến mà đối thủ Cộng Sản đã biết phối
hợp cả hai yếu tố này một cách tinh khôn và hữu hiệu.
Chú thích:
[1] Nguyễn Thái, Is South Vietnam Viable?, tr. 185, 186.
[2] Malcolm Browne, The New Face of War, tr. 70.
[3] Joseph Buttinger, Vietnam A Political History, tr. 447.
[4] Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, tr. 109, 110.
[5] Dương Tấn Tươi, Cười, Nguyên Nhân và Thực Chất, tr. 333.
[6] Joseph Buttinger, Vietnam A Political History, tr. 447, 448.
[7] Võ Phiến, Đất Nước Quê Hương, tr. 116.
[8] Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, tr. 119, 120.
[9] Robert Shaplen, The Lost Revolution, tr. 165-169.
[10] Joseph Buttinger, Vietnam, A Political History, tr. 463; và David
Halberstam, The Making of a Quagmire, tr. 172.
[11] David Halberstam, The Making of a Quagmire, tr.172.