nước ngoài, vẫn không quên nhắc lại nền công lý quái đản của chế độ Ngô
Đình Diệm chỉ biết bênh vực quyền lợi gia đình bất chấp quyền lợi quốc
gia:
Ngày xưa, dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, đường Công Lý thì đi một chiều,
đường Tự Do thì cấm xe xích lô, xe đạp, còn cổng chính Tòa án thì đóng
kín, thường dân phải đi cổng bên, nên thời đó có câu truyền tụng rằng:
Công Lý một chiều
Tự Do hạn chế
Tòa án đi cổng hậu
để chỉ cái độc tài, bất công, và suy tàn của thời đó [2].
Không độc tài, bất công, suy tàn sao được khi mà một mặt ông Diệm ký Dụ
số 61 ngày 1 tháng 10 năm 1955 để “phạt tử hình những kẻ đầu cơ” hầu
kiểm soát nhân dân, nhưng mặt khác ông lại bênh vực, bao bọc anh em ông
đầu cơ, tích trữ, giao thương với Cộng Sản mà điển hình như vụ ông Ngô
Đình Cẩn, bà Cả Lễ buôn bán gạo với miền Bắc, như vụ ông Ngô Đình
Thục nạp thuế cho Việt Cộng để làm gỗ.
Câu truyền tụng có tính dân gian đó chỉ thành hình thực sự và được phổ
biến trong quần chúng kể từ khi vụ án buôn lậu gạo tại miền Trung xảy ra
với tất cả cái nhơ nhớp và bất công của nó. Và chính vào cái dịp bản chất
của chế độ bắt đầu hiện nguyên hình qua vụ án đó, tinh thần trào phúng bất
diệt của dân tộc đã mô tả chỉ trong ba câu ngắn ngủi mà thành lời kết án chế
độ đến muôn đời.
Trong lúc vụ buôn lậu gạo với Việt Cộng đang làm cho dân miền Trung, nơi
“mùa Đông thiếu áo, Hè thời thiếu ăn” công phẫn thì tại Sài Gòn, dư luận
lại xôn xao về những hoạt động tham nhũng của vợ chồng Ngô Đình Nhu.
Xôn xao đến nỗi vợ chồng Nhu phải đăng báo cải chánh ngày 22-8-1957:
“Không hề chuyển ngân ra ngoại quốc, không tham gia vào thương mãi, kỹ
nghệ, tài chánh ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài, không bao giờ nhận đồ
lễ để can thiệp cho ai, chưa có đề nghị làm những việc bất hợp pháp...” [3].
Khốn nỗi, lời cải chính của vợ chồng Ngô Đình Nhu chỉ là “cái thúng không