Diệm gọi quân về phản công. Tôi lại đã trình bày cho ông Diệm biết có thể
nhóm Vương Văn Đông có liên hệ với hệ thống gián điệp Pháp vì từ khi
trốn qua Cao Miên, nhóm Vương Văn Đông đã được tình báo của Sihanouk
liên lạc và che chở ngay. Cựu Trung tá Trần Đình Lan trong cơ quan gián
điệp Pháp cũng từ Paris đến Phnom Penh liên lạc với Vương Văn Đông,
trong lúc Nguyễn Chánh Thi thì lại bị chính quyền và quân đội Cao Miên
bạc đãi. Việc này bác sĩ Tuyến còn biết rõ chi tiết hơn tôi và đã báo cáo đầy
đủ với ông Nhu.
Sự kết án lạ lùng đó đã khiến cho Hải và tôi để tâm theo dõi và tìm hiểu.
Rồi những sự kiện khác tiếp tục xảy ra như vụ Đại sứ Pháp Roger Lalouette
và ông Nhu trở nên thân thiết hơn, vụ Trưởng phái đoàn Ba Lan trong Ủy
hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến Mieczyslaw Maneli được săn đón kỹ
càng hơn, vụ công kích người Mỹ càng lúc càng kịch liệt và liên tục hơn.
Cho đến đầu năm 1963, khi một phái đoàn Quốc hội Việt Nam Cọng Hòa
thăm viếng Pháp thì Hải và tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Sau Tết Quý
Mão (1963) độ một tháng, tôi và Hải gặp nhau để phối kiểm mọi dữ kiện và
duyệt xét toàn bộ những biến chuyển của dinh Gia Long từ hai năm qua, và
Hải đã vừa lo lắng vừa buồn rầu kết luận: “Ông Cụ và ông Nhu đã thay đổi
lập trường rồi anh Mậu ơi. Bây giờ là chống Mỹ, bắt tay Pháp để nói chuyện
với Hà Nội ! Chúng ta làm gì đi chứ?”
Làm gì bây giờ? Đó là câu hỏi lớn mà Hải và tôi cứ bị ám ảnh mãi suốt hai
mùa Xuân và Hạ của năm 1963. Đó cũng là câu hỏi đã vượt ra khỏi cái liên
hệ tình cảm giữa chúng tôi và ông Diệm để được đúng đắn đặt trong cái liên
hệ giữa chúng tôi và đất nước. Mùa Thu năm đó, khi tôi lấy quyết định cùng
với toàn dân lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm thì tôi biết Hải cũng đã lấy quyết
định rồi mà thể hiện rõ ràng nhất là trong ngày Cách mạng 1–11–63, dù ông
Diệm khẩn cấp gọi Hải nhiều lần nhưng người bạn hiền của tôi nhất quyết
nằm tại nhà, không vào Dinh. Phải nhìn vào tình bạn thắm thiết giữa ông