một sĩ quan thâm niên có trình độ văn hóa cao, là một phần tử ưu tú của
quân đội đã từng chỉ huy đơn vị thiết giáp, nhưng vì Lộc là người thuộc
Hoàng phái, từng phục vụ trong văn phòng Quốc trưởng Bảo Đại và thường
tỏ ra khinh bỉ nhóm Cần Lao Công Giáo nên bị đè áp đến nỗi suốt 10 năm
quân vụ mà Lộc chỉ lên được có một cấp. Có lẽ Lộc đinh ninh rằng tôi mời
Lộc lên để cảnh cáo hoặc bắt giam, nên khi mới gặp tôi, Lộc tỏ vẻ ngại
ngùng lắm, cho đến khi tôi trấn tỉnh Lộc bằng cách giải thích tình hình đen
tối của nước nhà, giải bày tâm sự đau thương của mình rồi tôi rủ Lộc tham
gia tổ chức, Lộc mới yên tâm. Tất nhiên bề ngoài Lộc phải giữ thái độ dè
dặt nhưng tôi cũng đã thấy được nỗi lòng và quyết tâm của Lộc khi nghe nói
đến lật đổ chế độ Diệm. Để kết luận, tôi chỉ: “Yêu cầu Trung tá khi nghe
tiếng súng nổ ở Đô Thành, kéo ngay đơn vị Thiết giáp (gần trung tâm huấn
luyện của Lộc) về Sài Gòn để yểm trợ cho Bộ binh”. Lộc dạ rồi ra về.
Tuy đã kết nạp được một số sĩ quan đồng chí hướng, xây dựng thêm được
một số đơn vị mà khi hữu sự có thể đương đầu được với lực lượng võ trang
của Ngô Đình Nhu nhưng lòng tôi vẫn chưa yên. Tôi phải nắm cho được
tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh Quân Đoàn 3 và Tổng trấn Sài Gòn, vì nhân
vật này ở vào vị trí có thể xoay chuyển dễ dàng tình hình lúc đó.
Như đã nói trong một chương trước, tôi gặp Đính lần đầu vào cuối năm
1945 tại Đà Lạt, sau khi Việt Minh cướp chính quyền. Lúc bấy giờ tôi chỉ
huy một trong hai tiểu đoàn Giải phóng quân của miền Nam Cao nguyên
trong lúc Đính chỉ huy một trung đội. Tuy chúng tôi không phải là cán bộ
nòng cốt của Việt Minh nhưng tôi thì nhờ hồ sơ cá nhân có ghi chút công
“cách mạng” chống Pháp, và nhờ là cựu thủ lãnh Thanh Niên Tiền Phong
của Phong Trào Thanh Niên Phan Anh nên được Việt Minh trọng dụng, còn
Đính là một học sinh yêu nước và dám gác bút nghiên “theo việc kiếm
cung” trước cao trào kháng Pháp, nên cả hai chúng tôi đều được Ủy Ban
Hành Chánh Kháng Chiến Đà Lạt chỉ định đảm nhiệm những trách vụ quân
sự then chốt. Chúng tôi cùng chiến đấu chống lại liên quân Anh–Pháp–Nhật
tại mặt trận chạy dài từ Đà Lạt đến Đơn Dương (Dran). Nhưng vì hỏa lực
của địch quá mạnh nên mặt trận tan vỡ và chúng tôi mỗi người một ngả, tôi
thì về vùng núi rừng Ninh Thuận lập chiến khu gần một năm rồi bỏ Mặt