ủng hộ của nhân dân. Bọn “cướp” không phải ai khác mà là những nông
dân vùng lên chống kẻ chiếm đóng. Chúng ta hãy đọc một bức thư của viên
công sứ Pháp ở tỉnh Bắc Ninh viết năm 1886:
“Một đám đông bọn cướp vừa tiến công đồn Yên Sơn, nhờ sự đồng loã
của dân làng Yên Sơn. Đã không có một ai báo tin bọn cướp đến và bọn
này đã rút đi mà không lấy gì của dân”.
Khắp nơi đều thể hiện một tinh thần dũng cảm và sự khôn ngoan sáng
tạo như nhau. Người Pháp và bọn tay sai buộc phải dựng lên cả một mạng
lưới dày đặc, càn đi quét lại không ngớt. Năm 1889 ''vùng Bãi Sậy đã có
thể được tạm thời bình định."
Trên các vùng thượng du Bắc Kỳ, người Pháp chỉ chiếm được một số
đường giao thông chính và một số vị trí chiến lược. Cả vùng hoàn toàn nằm
trong tay của những thủ lĩnh địa phương, những người này liên lạc với quân
khởi nghĩa ở đồng bằng, làm cho quân đội Pháp phải điêu đứng. Ở vùng
Tây Bắc, phái viên của vua Hàm Nghi là Nguyễn Quang Bích chỉ huy các
hoạt động quân sự cùng với những thủ lĩnh các dân tộc ít người ở bản địa.
Để buộc ông ta ra hàng, người Pháp cùng bọn tay sai đã cho bắt người mẹ
già của Nguyễn Quang Bích, nhưng cả hai mẹ con đều không chịu nhượng
bộ chúng. Chỉ mãi đến cuối năm 1888, các toán quân của Pháp mới đến
được Lào Cai, Nghĩa Lộ và Điện Biên Phủ.
Ở vùng Đông Bắc, người Pháp chỉ kiểm soát được phần nào con đường
Hà Nội - Lạng Sơn; trên bờ biển, thành phố biên giới Móng Cái bị các lực
lượng yêu nước giành lại năm 1885, mãi đến năm 1886, mới bị quân Pháp
chiếm hẳn. Ở Việt Bắc, quân Pháp hầu như không thể ra khỏi các thành phố
thái Nguyên và Tuyên Quang bị chúng chiếm đóng từ năm 1884.
Khác vời sự chống cự của quân đội triều đình, cuộc kháng chiến mang
tính chất yêu nước và nhân dân hưởng ứng lời kêu gọi của vua Hàm Nghi
đã gây cho quân Pháp những khó khăn vô cùng to lớn, đánh cho chúng bị
thiệt hại nghiêm trọng và đã làm dấy lên ở tận nước Pháp những phản ứng
mạnh mẽ trong dư luận và ở nghị viện. Đã có một số lần, dưới áp lực của