Ngân sách được tiếp tục duy trì bằng thuế đinh, thuế điền thổ và ba loại
thuế độc quyền: thuế rượu, thuế muối, thuế thuốc phiện; tóm lại là bằng
những đóng góp nặng nề bòn rút từ một dân chúng cực kỳ nghèo khổ để
nuôi một bộ máy hành chính, quân sự và cảnh sát nặng nề. 70% ngân sách
đã dùng để trả lương cho công chức và cảnh sát. Viên gác cổng người Pháp
ở Trường Đại học Đông Dương hưởng lương gấp ba lần một giáo sư người
Việt. Những hàng rào thuế quan làm cho hàng hóa nhập khẩu cực kỳ đắt.
Cần ghi nhận rằng người Pháp cũng phải trả giá đắt đối với số gạo và cao
su mua của Việt Nam. Kẻ trục lợi duy nhất công cuộc ''khai khẩn'' Đông
Dương này vẫn là các công ty thuộc địa lớn.
Tính đến năm 1930, chính quyền thuộc địa cấp(hầu như không mất tiền)
cho một số tên thực dân người Pháp những vùng đất rộng mênh mông với
tổng diện tích 910.000ha.
Trên bình diện chính trị, những lời hứa hẹn ồn ào đưa ra trong thời chiến
tranh hầu như đều không được thực hiện; chế độ thuộc địa vẫn giữ tính chất
áp bức như trước. Tuy nhiên, bằng giọng lưỡi của những viên toàn quyền
''tự do'' ba hoa và mị dân, chính quyền thuộc địa tìm cách tranh thủ một
nhóm nhỏ ''thượng lưu'' bằng những bài diễn văn rất kêu và những cải cách
''vô thưởng vô phạt'': thành lập Đại hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông
Dương, một Phòng Nông nghiệp, trên nguyên tắc là để làm cố vấn cho
Chính phủ Đông Dương. Ở Nam Kỳ, số đại biểu của điền chủ và tư sản
người Việt được tham dự trong Hội đồng thuộc địa ngang với người Pháp.
Hội đồng này là cơ quan tư vấn của viên thống đốc người Pháp. Ở Trung
Kỳ và Bắc Kỳ những Viện dân biểu được thành lập theo chế độ bầu cử hạn
chế, làm cơ quan tư vấn cho các viên khâm sứ người Pháp.
Những dân biểu hoặc nghị viên này được tuyển chọn chặt chẽ chỉ dùng
làm bình phong và được dân chúng gọi là “nghị gật”. Chính quyền thuộc
địa thực ra không muốn ban cho những người tư sản và phong kiến Việt
Nam một chút quyền lực thực sự nào. Ngay nhà vua cũng chỉ còn lại cái
đặc quyền ban cấp phẩm hàm cho... các thành hoàng làng mà thôi!