khi được trở về, những người này đã góp phần quan trọng vào phong trào.
Tuy nhiên vẫn còn hàng nghìn chính trị phạm bị chính quyền thuộc địa tiếp
tục giam giữ trong các nhà tù khổ sai.
Một thắng lợi khác là việc ban bố một số đạo luật xã hội. Kể từ tháng 11
năm 1936, ngày làm việc không được quá 10 giờ, rồi 9 giờ kể từ ngày 1
tháng 1 năm 1937, và 8 giờ kể từ 1-1- 1-1-1938. Cấm sử dụng đàn bà và trẻ
con làm đêm. Công nhân được quyền nghỉ một ngày trong một tuần, và
được nghỉ phép từ 5 đến 7 ngày mỗi năm mà vẫn được hưởng lương.
Lương phải trả bằng tiền, các khoản tiền phạt khấu vào lương đều bị cấm.
Nữ công nhân sinh đẻ có quyền nghỉ 8 tuần, chủ không phải trả lương
nhưng không được đuổi việc những phụ nữ sinh đẻ như trước đó chúng vẫn
làm. Pháp chế xã hội chưa bao gồm tự do nghiệp đoàn, tự đo bãi công, bảo
hiểm xã hội, tóm lại là chưa bao gồm những quyền cơ bản của công nhân,
nhưng đây là một tiến bộ quan trọng so với tình trạng trước đó. Vả chăng,
việc thi hành những đạo luật mới trên đây sau đó vấp phải sự chống đối
mạnh mẽ của chính quyền thực dân cũng như của giới chủ, phải có nhiều
cuộc đấu tranh lâu dài mới có thể đưa những đạo luật đó vào đời sống thực
tế.
Trong không khí chính trị chung, giai cấp công nhân Việt Nam, có được
sự cố vũ đã giành được thắng lợi, đã trải qua một thời kỳ sôi sục mãnh liệt.
Nửa sau của năm 1936, có đến 361 cuộc bãi công của công nhân Sài Gòn
phản đối vụ bắt bớ những người chủ xướng Đại hội Đông Dương. Cuộc bãi
công quan trọng nhất là của 25.000 công nhân than ở Quảng Yên. Tăng
lương, giảm giờ làm, tự do nghiệp đoàn và tự do dân chủ là những yêu sách
chính của công nhân. Năm 1937, được đánh dấu bằng 400 cuộc bãi công.
Năm 1938, ban lãnh đạo chính trị của phong trào chủ trương tập trung hành
động chống các công ty thuộc địa lớn, còn đối với các tư sản dân tộc nhỏ
thì tìm cách dàn xếp có sự nhân nhượng lẫn nhau nhằm mở rộng mặt trận
dân chủ.
Các công đoàn vẫn bị cấm, nhưng công nhân và viên chức lập những hội
''ái hữu'', những hội thể thao, những câu lạc bộ đọc sách; tờ báo Lao Động