Thế nhưng, việc kiểm duyệt gắt gao đã hạn chế rất nhiều phạm vi hoạt
động của các nhà văn hiện thực; có thể công kích chế độ quan lại, nhưng
chớ đụng đến chế độ thực dân. Vì vậy, bên cạnh mảng văn học công khai,
còn có cả một dòng văn học bí mật phần lớn là của những cây bút cách
mạng đang trực tiếp dấn thân vào hành động. Nhiều tác phẩm khuyết danh
cũng được lưu truyền. Đã thấy rõ sự nở rộ của thơ ca trong thời kỳ Xô Viết
Nghệ Tĩnh. Những chiến sĩ bị cầm tù sau năm 1930, trong thời gian ở tù, đã
sáng tác nhiều bài thơ ca ngợi lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách
mạng và biểu thị niềm tin của họ vào thắng lợi cuối cùng. Tinh thần lạc
quan của những người cách mạng lan tỏa lên toàn bộ nền văn học.
Năm 1938, một nhà thơ trẻ sinh năm 1920, một chiến sĩ cộng sản, bị tù
từ 1939 đến 1942, cho ra tập thơ “Từ ấy” trong đó có hai câu nhanh chóng
in sâu vào ký ức của thanh niên:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim... ''
Chủ nghĩa lãng mạn cách mạng ra đời thay thế chủ nghĩa lãng mạn bi
quan. Những đề tài yêu nước và cách mạng nổi bật lên trong dòng văn học
bí mật và văn học ở các khu giải phóng trong thời kỳ chiếm đóng của Nhật
Bản, trong khi văn học công khai được Pháp và Nhật cho phép lại rơi vào
chủ nghĩa bí hiểm.
Lại thêm một sự kiện quan trọng thổi luồng gió mới thúc đẩy trào lưu
văn học cách mạng: Năm 1943, Đảng Cộng sản công bố Đề cương văn hóa,
chủ trương xây dựng một nền văn hóa “dân tộc đại chúng và khoa học”.
Năm 1944, những nhà văn và các nhà văn hóa có danh tiếng thành lập ''Hội
văn hóa cứu quốc'' nằm trong Mặt trận Việt Minh. Một thời kỳ mới mở ra
cho nên văn học Việt Nam, dấn thân theo đường cách mạng, gắn chặt với
cuộc đấu tranh dân tộc và nhân dân.
Cần đặc biệt nêu lên một tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong
những năm 1942 - 1943, khi bị quân của Tưởng Giới Thạch bắt giam ở
miền Nam Trung Quốc: Ngục trung Nhật Ký. Tập nhật ký này là một sưu