thì vốn thù nghịch với phong trào cách mạng, vả chăng rất muốn khai thác
tối đa các nguồn tài nguyên của Đông Dương nên tận dụng bộ máy cai trị
của thực dân Pháp. Sự cấu kết giữa các giới thực dân Pháp và phát xít Nhật
để ngăn chặn phong trào dân tộc của Việt Nam kéo dài đến tận năm 1945.
Giữa Pháp và Nhật, sự cố Lạng Sơn được dàn xếp nhanh chóng. Chính
quyền thực dân có thế tập trung lực lượng để đập tan cuộc khởi nghĩa Bắc
Sơn. Nghĩa quân rút vào rừng núi tạo thành những hạt nhân du kích đấu
tranh do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Ở phía Nam xứ Đông Dương, người Pháp vấp phải những tham vọng của
Thái Lan được Nhật Bản ủng hộ, đòi những phần đất ở Tây Bắc khu vực
Biển Hồ thuộc Campuchia và ở phía hữu ngạn sông Mê Kông thuộc Lào.
Nhiều đơn vị lính Việt Nam bị điều ra mặt trận để đánh nhau với quân Thái
Lan. Một số trong những đơn vị này, để khỏi bị đẩy ra mặt trận, đã quyết
định tổ chức nổi dậy. Ý định này lại khớp với chương trình tích cực chuẩn
bị khởi nghĩa của Xứ ủy Đảng bộ Nam Kỳ từ tháng 6 năm 1940. Một kế
hoạch được vạch ra nhằm phối hợp hành động giữa các đơn vị binh lính
khởi nghĩa trên toàn cõi Nam Kỳ với hành động của các tổ chức công nhân
và nông dân.
Cuộc khởi nghĩa nổ ra đêm 23 tháng 11 năm 1940. Không may bọn cầm
quyền thực dân đã được báo trước về âm mưu đó nên đã cho giải giáp các
đơn vị không phục tùng; cuộc nổi dậy bất thành, nhưng khởi nghĩa vẫn nổ
ra ở 8 tỉnh Nam Kỳ(trong số 20 tỉnh) đặc biệt ở tỉnh Mỹ Tho có đến 54/100
xã tham gia. Chính nơi đây lần đầu tiên lá cờ đỏ sao vàng được giương lên,
sau này trở thành quốc kỳ của nước Việt Nam hiện tại.
Được Nhật ngấm ngầm đồng tình, chính quyền thuộc địa đã đàn áp dã
man cuộc khởi nghĩa. Rất nhiều làng xã bị san bằng, hơn 20.000 người bị
bắt và bị giết.
Một cuộc khởi nghĩa khác đã nổ ra ngày 13 tháng Giêng năm 1941, ở Đô
Lương tỉnh Nghệ An. Một đồn lính đã nổi dậy tiến đến thành phố Vinh,
tỉnh lỵ Nghệ An, nhưng đã bị thực dân Pháp nhanh chóng dẹp tan.