được, chủ yếu gồm một số trí thức. Chính phủ Trần Trọng Kim tỏ ra bất lực
hoàn toàn trong việc giải quyết những vấn đề lúc đó: nạn đói tiếp tục hoành
hành, không một thể chế mới nào được ban hành, việc ân xá tù chính trị
không được áp dụng cho những người ''cộng sản'', tức là 9/10 số người bị
giam giữ lúc đó. Một sắc lệnh ký ngày 13 tháng 6 phạt tội tử hình những ai
tấn công vào các đường giao thông, các kho gạo, kho hàng hóa, cấm chỉ
mọi cuộc tụ tập trên 10 người; một sắc lệnh khác ký ngày 15 tháng 7, cấm
các công đoàn hoạt động chính trị. Chính phủ Trần Trọng Kim tự vạch mặt,
đơn giản họ chỉ là tay sai của người Nhật.
Về phía mình, Việt Minh kêu gọi dân chúng cảnh giác, đặc biệt là các
giới tiểu tư sản, tránh mọi ảo tưởng có thể giành lại độc lập bằng cách
thương lượng với Nhật Bản, hoặc thông qua chính phủ bù nhìn Bảo Đại-
Trần Trọng Kim. Đêm mồng 9 tháng 3, trong khi quân Nhật tước vũ khí
của người Pháp, ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản họp ở Đình Bảng cách
Hà Nội 30km, phân tích chính xác tình hình, đưa ra một loạt nghị quyết có
tầm quan trọng quyết định.
Không phủ nhận khả năng các lực lượng Pháp có thể ồ ạt quay trở lại,
nhưng phải hiểu rằng kẻ thù chính trước mắt là chủ nghĩa phát xít Nhật; tuy
nhiên nếu bộ máy cai trị của Pháp đã bị phá vỡ, thì bộ máy phục vụ cho
Nhật chưa thể vận hành. Chiến tranh thế giới đang đi vào giai đoạn quyết
định. Thất bại của Nhật sắp đến rồi. Trong nước quần chúng nhân dân đang
bị nạn đói dày vò, căm thù sâu sắc kẻ chiếm đóng, đòi hỏi chuyển sang
hành động. Chúng ta thực sự đang ở vào tình thế tiền cách mạng. Vấn đế
đối với Đảng và Mặt trận Việt Minh là lôi cuốn quần chúng chuẩn bị tổng
khởi nghĩa giành chính quyền.
Việc động viên tiền khởi nghĩa đối với quần chúng nhân dân gồm 3 mặt
chủ yếu:
– Phát triển các hoạt động du kích ở các miền núi và trung du
– Vận động quần chúng nông dân dùng sức mạnh chiếm các kho thóc.
– Cổ động chính trị ở các thành phố lớn.