Như vậy, trong những tháng đầu năm 1946, tình thế là rất khó xử cả đối
với người Pháp cũng như đối với Chính phủ Việt Nam. Tuy quân pháp đã
chiếm được các thành phố chính ở Nam Bộ và ở cả Nam Trung Bộ, nhưng
chúng bất lực không thắng nổi quân du kích, mặt khác, chừng nào còn có
một Chính phủ cách mạng ở Hà Nội thì chừng đó việc chiếm đóng miền
Nam còn bấp bênh. Trong khi tiếp tục những chiến dịch quân sự và gửi
viện binh từ Pháp sang, thực dân Pháp bắt đầu tính đến kế hoạch ly khai
Nam Bộ với một ''Chính phủ tự trị'' gồm những tay bù nhìn. Về phía Việt
Nam, quyết tâm bảo vệ nền độc lập là không hề lay chuyển và sự ủng hộ
của rộng rãi nhân dân được bảo đảm vững vàng, nhưng lực lượng vật chất
và quân sự vẫn rất nhỏ bé. Cần phải có thì giờ để xây dựng những lực
lượng ấy. Ngoài ra, sự có mặt của những đội quân Tưởng ở miền Bắc làm
chỗ dựa cho các đảng phản động là một mối đe đọa thường xuyên.
Bọn thực dân Pháp liền bắt tay thương lượng với Tưởng Giới Thạch cho
phép quân Pháp thay chân quân Tưởng ở Bắc Đông Dương, đổi lại Pháp
nhường cho Tưởng những quyền lợi của Pháp ở Trung Quốc, một đoạn
đường sắt Vân Nam, một đặc khu ở Hải Phòng và một quy chế đặc biệt cho
các Hoa Kiều ở Đông Dương. Hiệp định được ký ngày 28 tháng 2, chủ
quyền Việt Nam bị đem ra đổi chác mà Chính phủ Việt Nam lại không
được hỏi đến. 4.000 quân Pháp chạy trốn sang Trung Quốc cho đến tận bây
giờ liền kéo vào Lai Châu, trong lúc viện binh từ Pháp sang đang chuẩn bị
đổ bộ lên miền Bắc.
Để tránh phải đánh nhau một lúc vừa với quân Pháp vừa với quân Tưởng
Giới Thạch, Chính phủ Việt Nam chọn con đường thỏa hiệp với Pháp, để
chấm dứt việc quân Tưởng chiếm đóng đất nước. Thỏa hiệp đó là cần thiết
để tranh thủ thời gian và có thể thực hiện được, vì quân Pháp trong lúc
đang chuẩn bị việc xâm chiếm lại toàn bộ Việt Nam, chưa đủ sức tiến hành
một cuộc chiến tranh mở rộng ra cả nước. Trong thời gian đầu người Pháp
chỉ cần đưa vào được một số quân nào đó để làm bàn đạp rồi từng bước mở
rộng dần sự chiếm đóng cùng với nhịp độ viện binh gửi tới.