thuộc địa khác, hòa nhập vào cách mạng thế giới, nghĩa là gắn chặt với
cuộc đấu tranh của các lực lượng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và xã
hội chủ nghĩa trên toàn thế giới. Tuy nhiên, năm 1946, nước Việt Nam còn
bị cô lập về mặt địa lý, đế quốc Mỹ thì còn vướng bận vì nhiều mưu toan
khác, chưa can thiệp sâu vào các vấn đề của Đông Dương. Cuộc chiến đấu
chủ yếu là giữa nhân dân Việt Nam chống lại một mình thực dân Pháp.
Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, việc thành lập nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa tháng 10 năm 1949, làm đảo lộn sâu sắc tương quan lực
lượng quốc tế. Cuộc kháng chiến của Việt Nam lúc đó có thể tựa lưng vào
phe xã hội chủ nghĩa, phá tan vòng vây đang thắt chặt quanh mình. Hòng
bù đắp lại thất bại của họ ở Trung Quốc, năm 1950, đế quốc Mỹ lơ mơ
cuộc chiến tranh xâm lược Triều Tiên và công khai can thiệp vào Đông
Dương. Cuộc chiến tranh trở thành chiến tranh của Pháp-Mỹ chống nhân
dân Việt Nam và cũng là chống cả phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á.
Như vậy, trên bình diện đối nội và đối ngoại, năm 1950 thật sự là một
bước ngoặt lịch sử. Vì vậy, chúng tôi sẽ phân biệt hai giai đoạn chính trong
quá trình cuộc ''Kháng chiến trường kỳ" này: Giai đoạn thứ nhất từ 1946
đến cuối năm 1950, cuộc kháng chiến Việt Nam củng cố dần dần những
căn cứ quân sự, kinh tế, chính trị, hành chính và văn hóa của mình, giai
đoạn thứ hai từ năm 1951 đến 1954, thời kỳ của những chiến thắng quân sự
quan trọng có ý nghĩa quyết định và những cải cách sâu sắc trên bình diện
kinh tế và xã hội. Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hội nghị Giơ-ne-vơ năm
1954, đã kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, buộc chúng phải
thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam.