Khôi phục nền độc lập
Nhiều cuộc khởi nghĩa diễn ra dưới thời đô hộ của nhà Đường; cuộc khởi
nghĩa của Lý Tự Tiên và Định Kiên năm 687, của Mai Thúc Loan năm 722,
của Phùng Hưng(766-791), của Dương Thanh(819-820). Vào cuối thế kỷ
thứ chín, những cuộc nổi loạn, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Hoàng
Sào(874-884) ở Trung Quốc, làm rung chuyển chế độ nhà Đường và Trung
Quốc trải qua một thời kỳ dài vô Chính phủ ngay từ đầu thế kỷ thứ X. Năm
905, viên thứ sử cuối cùng được phái sang từ Trung Quốc chết ở Việt Nam.
Một nhà hào phú ở Cự Bố(tỉnh Hải Hưng hiện nay) là Khúc Thừa Dụ, lợi
dụng tình hình loạn lạc ở Trung Quốc, bèn tự xưng là thứ sử, và năm 905
triều đình nhà Đường buộc phải công nhận việc đã rồi. Con trai Khúc Thừa
Dụ là Khúc Hạo cố gắng thiết lập một nền cai trị quốc gia; năm 930, triều
đại Nam Hán lên nắm quyền ở miền Nam Trung Quốc lại xâm lược Việt
Nam. Nhưng ngay từ năm 931, Dương Đình Nghệ, một người yêu nước,
tiếp tục cuộc chiến đấu và tự xưng là thứ sử. Khi Dương Đình Nghệ bị một
viên tướng của mình ám sát thì Ngô Quyền lên thay ông chỉ huy cuộc chiến
đấu năm 938 và ngay lập tức phải đối đầu với một đội quân viễn chinh
Nam Hán kéo đến bằng đường biển. Thủy quân Nam Hán xâm nhập Việt
Nam qua cửa Bạch Đằng(chảy vào Vịnh Hạ Long) tại đó Ngô Quyền đã
cho cắm xuống lòng sông những chiếc cọc bịt sắt. Khi thủy triều lên, thủy
quân Việt Nam đến khiêu chiến rồi giả vờ thua chạy nhử các tầu của Nam
Hán đuổi theo vào cửa biển, vượt qua bãi cọc lúc đó còn bị nước thủy triều
che kín. Khi thủy triều xuống, toàn bộ thủy quân Việt Nam phản công, các
tầu Nam Hán rút lui vướng phải các cọc bịt sắt và nhanh chóng bị chìm.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938, đã kết thúc vĩnh viễn thời kỳ đô hộ
của Trung Quốc. Năm 939, Ngô Quyền tự xưng vương, đóng đô ở Cổ
Loa(kinh đô cũ của thế kỷ thứ ba sau CN) và thiết lập một chính quyền tập
trung. Đó là nhà nước Việt Nam đầu hên thực sự độc lập.