Trên bình diện kinh tế và tài chính, kể từ năm 1951, một loạt biện pháp
đã tạo một sức đẩy mới cho cuộc sống ở các vùng tự do, đảm bảo đẩy mạnh
sản xuất, đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của kháng chiến. Một
phong trào thi đua được phát động trong tất cả các lĩnh vực nông nghiệp,
công nghiệp, quân đội, lao động trí óc, kích thích mạnh mẽ đà sản xuất của
mọi giới, đặc biệt là của nông dân.
Tình hình cũng bắt buộc Nhà nước phải đảm đương phần trách nhiệm
ngày một lớn trong việc lãnh đạo các hoạt động kinh tế của đất nước và
phải thực hiện có kết quả việc lành mạnh hóa nền tài chính đang bị nợ nần
chồng chất vì lạm phát ngày càng tăng. Tháng 5 năm 1951, có những quyết
định:
– Lập Ngân hàng Nhà nước.
Phát hành tiền mới, 1 đồng mới bằng 10 đồng cũ.
– Quy định một thứ thuế nông nghiệp duy nhất thay cho tất cả mọi thứ
thuế và đóng góp khác đối với nông dân.
– Lập ngành Mậu dịch quốc doanh.
Phần thu nhập để trang trải các chi phí ngân sách không ngừng tăng lên:
23% trong năm 1950, 30% năm 1951, 82% năm 1952, 116% năm 1953.
Giá cả ổn định, chỉ số giá như sau: năm 1949 là 100, năm 1950 là 440,
năm 1951, trước ngày phát hành đồng tiền mới là 464, mấy tháng cuối cùng
của năm 1951, sau khi phát hành tiền mới là 360, năm 1952 là 335, năm
1953 là 115, năm 1954 là 92. Trong vùng Việt Bắc từ năm 1952 - 1953, giá
lúa gạo hạ 35%, giá muối hạ 55%, giá hàng dệt hạ 30%.
Những trao đổi hàng hóa giữa các vùng tự do và vùng tạm chiếm được
kiểm soát chặt chẽ để có lợi cho đồng tiền Việt Nam. Tinh thần yêu nước
của nhân dân ở hai vùng và chủ nghĩa anh hùng của các cán bộ làm công
tác này đã đem lại phần thắng cho cuộc đấu về tỷ lệ hối đoái giữa hai đồng
tiền. Đồng Việt Nam được củng cố, trong khi đồng bạc của Ngân hàng
Đông Dương bị mất giá, tụt từ 17 franc xuống 10, rồi 7 franc, mặc dầu có
viện trợ to lớn của Mỹ.