đạo đất nước. Nó không phải là một giai cấp tư sản, cũng không phải là giai
cấp phong kiến bản địa, mà thuần túy là con đẻ của Mỹ, cũng như bộ máy
quân sự và cảnh sát khổng lồ mà đẳng cấp đó chỉ huy đã được dựng lên
bằng đô la và chính sách hủy diệt có hệ thống nông thôn miền Nam Việt
Nam. Bọn du côn, bọn vô lại được huấn luyện đặc biệt dùng cho việc chém
giết, tra tấn, để làm khung cán bộ cho đội quân đàn áp, để thực hiện mọi
nhiệm vụ đê tiện và gieo rắc khủng bố. Với bộ máy khổng lồ ấy, Nixơn,
tưởng có thể thi hành trôi chảy chính sách “Việt Nam hóa” của y và rút dần
bộ binh Mỹ về nước, trong khi có thể ra lệnh đội bom ác liệt miền Bắc Việt
Nam bất cứ lúc nào. Cũng có một số cố gắng quan trọng nhằm đảm bảo
một mức phồn vinh kinh tế nhất định cho những vùng còn do Sài Gòn kiểm
soát. Viện trợ quân sự và kinh tế của Mỹ trung bình lên đến 2 tỷ đô la/năm,
một số tiền khá lớn đối với Việt Nam, nhưng thấp hơn nhiều so với 30 tỷ đô
la phải bỏ ra để đài thọ cho sự can thiệp trực tiếp của quân đội Mỹ vào cuộc
chiến tranh.
Trong một chừng mực nào đó, có thể nói rằng Nixon đã đã đạt được ít
nhiều kết quả; sức mạnh kinh tế, kỹ thuật khổng lồ của Mỹ chĩa vào một
nước nhỏ trong nhiều năm liền, luôn luôn có thể đưa đến một số kết quả và
không phải không có lý, khi Nixon tin tưởng bước vào cuộc tranh cử tổng
thống. Nhất là những cuộc thương thuyết giữa Bắc Kinh và Washington đã
đi đến một sự thỏa thuận đáng kể như chúng ta đã thấy trên đây.
Cuộc chạm trán năm 1972, sẽ là quyết định. Về phía Việt Nam, phải có
lời giải đáp cho nhiều vấn đề quân sự có tầm quan trọng quyết định hàng
đầu:
Hệ thống phòng thủ vòng ngoài, do Mỹ và Sài Gòn dựng lên, có thể đạp
đổ được không?
Có thể tiêu diệt những đơn vị tinh nhuệ của quân đội Sài Gòn hay
không?
Liệu luồng hợp tế có thể tiếp tục đến đích được không trong trường hợp
mở một cuộc tấn công dài ngày?