Để tìm cách nắm lấy quyền chỉ đạo các cuộc hành quân, Bắc Kinh đề
nghị đưa 20 vạn lính Trung Quốc vào Việt Nam. Việt Nam từ chối.
Cuộc tấn công nổ ra vào ngày 30 tháng 3 của quân đội nhân dân đã soi
sáng vấn đề. Cho đến ngày 1 tháng 5, các cứ điểm ở phía bắc tỉnh Quảng
Trị, gần vĩ tuyến 17, những cứ điểm ở tây bắc Sài Gòn về phía Lộc Ninh và
An Lộc, nhiều căn cứ quan trọng trên các đường 14 và 19, ở Cao Nguyên...
bị pháo binh, xe tăng và bộ binh quân giải phóng tấn công dữ dội đều lần
lượt thất thủ. Các đơn vị tinh nhuệ nhất của Sài Gòn, mặc dầu được hải
quân và không quân Mỹ yểm trợ, cũng không thể trụ lại được đòn tấn công.
Tỉnh Quảng Trị được hoàn toàn giải phóng.
“Việt Nam hóa chiến tranh” đã bị một vố thất bại nghiêm trọng.
Washington buộc lòng phải “mỹ hóa” trở lại một phần cuộc chiến tranh.
Nhiều đơn vị không quân, hải quân quan trọng được điều đến tăng cường
cho những lực lượng của Mỹ còn có mặt ở Đông Dương, số máy bay chiến
thuật và khu trục ném bom của Mỹ được tăng lên trên 1300 chiếc, số máy
bay B52 lên tới 200. Washington phải cứu nguy cho Sài Gòn, bởi vì- không
những vành đai phòng thủ vòng ngoài của Sài Gòn bị uy hiếp, mà cả hậu
phương - những vùng đã được “bình định” cũng chuyển động... Chiến tranh
du kích diễn ra mãnh liệt bộ máy chính quyền đo Sài Gòn dựng nên ở nhiều
vùng như Bình Định, miền Tây châu thổ Mê Kông bị đập tan. Lực lượng
không quân và hải quân của Mỹ, để giúp quân đội Sài Gòn chiếm lại thị xã
Quảng Trị, hàng ngày trút xuống thành cổ này từ 15.000 đến 20.000 viên
đạn pháo, trong khi 200 -300 máy bay địch bắn phá các trận tuyến đối
phương.
Để cứu vãn chính sách “việt Nam hóa” của mình bị thất bại, Nixon tung
ra một đợt leo thang mới chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày
16-4, máy bay B52 đánh phá hủy diệt nhiều khu phố ở Hải Phòng, thành
phố thứ hai của Bắc Việt Nam; chúng còn liên tiếp ném bom Hải Phòng
cho đến tận cuối năm 1972. Máy bay Mỹ hoạt động trên đất Bắc Việt Nam
theo hai cách: