“Việt Nam hóa” chiến tranh, những cuộc ''bình định'' đã được tăng cường
sau ngày kí kết Hiệp định Paris nhằm củng cố hậu phương của quân đội Sài
Gòn và các cơ sở của chế độ Thiệu.
Tất cả các khu vực mới bị các lực lượng Sài Gòn chiếm lại hoặc đã bị
chúng chiếm lại từ trước lập tức bị đặt trong một hệ thống kìm kẹp bao
gồm:
– Một mạng lưới đồn bốt và chi khu quân sự có quân chính quy đồn trú;
– Các lực lượng an ninh địa phương và dân vệ;
– Các lực lượng cảnh sát chính quy và đặc biệt;
– Một bộ máy cai trị bù nhìn;
– Những tên chỉ điểm hoạt động bí mật;
– Những tổ chức chính trị phản động.
Đó là chưa kể một loạt tổ chức ''nhân đạo'', ''văn hóa'', ''tôn giáo'', ''tương
trợ''... vây chặt từng người dân trong một mạng lưới chằng chịt. Hai mươi
năm kinh nghiệm và việc huy động nhiều chuyên gia đã giúp chủ nghĩa
thực dân mới của Mỹ hoàn thiện phương pháp kìm kẹp ngày càng tinh vi
hơn của chúng. Sau khi đã ám sát, bắt giam các cán bộ và những người cảm
tình của phong trào yêu nước, hoặc đơn giản chỉ là những công dân bị tình
nghi, sau khi đã lên danh sách, ghi phiếu, khủng bố dân chúng, bọn Thiệu
tìm cách lùa một bộ phận đông đảo dân chúng vào các tổ chức bán quân sự,
các lực lượng tự vệ dân sự để đẩy họ đi đánh lại các chiến sĩ yêu nước. Như
thế quân đội Sài Gòn có thể lợi dụng được một lớp vỏ bọc phòng vệ trong
các cuộc hành quân, lại có được một lực lượng dự trữ cho những đợt
chuyển quân mới.
Chỗ nào các lực lượng Sài Gòn không thể triển khai được toàn thể bộ
máy chính trị-quân sự của chúng để lùa nhân dân vào hàng ngũ thì chúng sẽ
cưỡng ép họ trở lại các trại hoặc khu tập trung. Hơn một triệu nới người đã
bị tập trung như thế trong những năm 1973-1974. Những cuộc ném bom đã
được thực hiện, những toán biệt kích được phái đi để phá hoại các vùng do
Chính phủ Cách mạng lâm thời kiểm soát. Chính sách thực dân mới của