Cổ. Năm 1284, Toa Đô bắt đầu cuộc rút lui và điều quân lên đóng ở phần
phía bắc của đất Chiêm Thành, gần biên giới Đại Việt để chờ xem động
tĩnh.
Lúc đó, Hốt Tất Liệt đã chuẩn bị xong một đội quân viễn chinh hùng hậu
dưới sự chỉ huy của con trai y là Thoát Hoan nhằm chinh phục cả Đại Việt
và Chiêm Thành: 500.000 kỵ binh và bộ binh sẽ tràn xuống phương nam để
mở rộng biên giới của đế quốc Mông Cổ xuống tận cực nam rủa bán đảo
Đông Dương.
Vua Trần Nhân Tông đã nắm vững tình hình, ngay từ 1282, ông cho triệu
tất cả các hoàng thân và đại thần để hỏi về đường lối nên theo, và tất cả đều
trả lời là phải chiến đấu. Hoàng thân Trần Quốc Toản mới 16 tuổi, tuyển
một đội quân 1.000 người để ra trận. Cuối 1283, tất cả hoàng thân và đại
thần được lệnh tập trung các lực lượng vũ trang của họ dưới sự chỉ huy tối
cao của Trần Hưng Đạo.
Một đại hội gồm tất cả bô lão của các làng họp ở Diên Hồng. Câu hỏi đặt
ra cho họ là: Nên hàng hay nên đánh? Cả hội nghị vang lên ''Đánh''.
Mông Cổ đòi đế quân đội của chúng đi qua Đại Việt để tiến đánh Chiêm
Thành. Cuối 1284, chúng đã vượt qua biên giới.
Các lực lượng Đại Việt, với tổng số 200.000 người không cản nổi chúng
trong những trận giáp chiên đầu hên. Trần Hưng Đạo liền cho rút khỏi kinh
thành, nhà vua hỏi ông: ''Quân địch mạnh đến nỗi trẫm sợ nếu chiến tranh
kéo dài thì e dân sẽ phải dịu sự tàn phá ghê gớm. Nên chăng ta hàng để cứu
dân?'' Vị tổng tư lệnh trả lời: “Thần rất hiểu lòng nhân ái của Bệ hạ, nhưng
còn tôn miếu xã tắc thì sao? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin hãy cho chặt đầu
thần trước đã!” Vua yên tâm. Trần Hưng Đạo soạn cho các tướng sĩ của
mình quyển Binh thư yếu lược, ra lời hịch nổi tiếng kêu gọi tướng sỹ, làm
cho họ nức lòng, thích lên cánh tay hai chữ Sát Thát(giết quân Mông Cổ).
Trong các làng xóm dán cáo thị, ra lệnh cho dân chúng phải lòng lại quân
xâm lược bằng mọi cách, nếu cần thì trốn vào rừng núi tiếp tục cuộc chiến
đấu.