Sự chiếm đóng của quân Minh
Ngay từ tháng 7-1407, hoàng đế nhà Minh đã sáp nhập Đại Việt vào đế
quốc Trung Hoa dưới cái tên là quận Giao Chỉ, thiết lập lại guồng máy cai
trị trung ương và chia cả nước thành những phủ và châu. Năm 1419, bộ
máy cai trị của nhà Minh tìm cách vươn tay đến tận các làng xã. Các viên
chức cao cấp đều là người Trung Quốc, còn những chức thuộc cấp thì giao
cho người bản xứ. Một cuộc tổng điều tra dân số cho biết có 3.129.500 dân
và 2.087.500 người man(dã man) thuộc các bộ lạc miền núi, tổng cộng là
5,2 triệu người, không kể số người nằm ngoài cuộc kiểm kê. Nhiều toán
quân đồn trú lớn đóng khắp nước tìm cách duy trì trật tự, giữa các đồn binh
đặt những binh trạm tất cả hình thành một mạng lưới giám sát dày đặc phủ
kín cả nước, mọi sự chống đối đều bị đàn áp một cách nghiêm khắc.
Chế độ thuế khóa rất nặng, gồm có thuế điền thổ đánh vào nương lúa,
nương dâu và thuế thân, kê chiếm đóng giữ độc quyền buôn bán muối.
Người dân khỏe mạnh từ mười sáu đến sáu mươi tuổi buộc phải đi lính và
làm đủ thứ lao dịch: đắp đường, khai mỏ, mò ngọc trai, săn bắn... Năm
1419, chúng đặt chế độ hộ tịch để kiểm soát thật chặt dân tình. Hàng nghìn
thợ giỏi, trí thức có tài bị đầy sang Trung Quốc, trong số này có Nguyễn An
sau đó trở thành kiến trúc sư xây dựng cố cung ở Bắc Kinh. Quân Minh
không những cướp người mà còn cướp của cải, gia súc(voi, trâu, ngựa),
những vật liệu quý.
Nhân dân bị buộc phải mặc quần áo như người Trung Quốc, theo phong
tục tập quán Trung Quốc, quân đội nhà Minh tìm cách tiêu hủy hết mọi dấu
vết của nền văn hóa dân tộc, đốt hoặc lấy mang đi những sách vở có nét đặc
thù của dân tộc Việt Nam. Đây thật sự là một tai họa đối với nền văn hóa
dân tộc Việt Nam, hầu hết mọi tác phẩm văn hóa trước thế kỷ XV, đều bị
tiêu hủy.
Ách diêm đóng nặng nề như thế chẳng bao lâu đã làm dấy lên một sự
chống cự quyết liệt. Ngay từ cuối năm 1407, nhiều cuộc nổi dậy đã nổ ra,