Các công cụ bằng đá mài ngày càng được chuyên môn hóa. Cái lưỡi rìu
và cuốc lim có vai hay mộng để tra cán được mài nhẵn, với những hình
dạng hình học đều đặn, những kiểu và những kích thước khác nhau, và đều
có cán. Con người biết cưa, khoan, và nhờ một loạt dụng cụ, có thể đốn
cây, khai hoang những khoảnh đất rộng, chế tạo thuyền, những đồ vật bằng
gỗ và bằng tre, cạo vỏ cây, da thú; con người có thể chế tác xương, sừng, đá
để tạo ra những chiếc nhẫn, vòng tay, hoa tai, chuỗi hạt.
Nghệ thuật gốm đạt trình độ cao với việc sử dụng bàn xoay và việc nung
trong lò cung cấp những sản phẩm có chất lượng, có hình thức và kích
thước đa dạng: nồi to và nhỏ, bình, vò phần lớn mang những trang trí chạm
khắc, chủ yếu và những hình kỷ hà. Những chiếc kim bằng xương, những
guồng quay và những trục suốt bằng đất nung chứng tỏ sự tồn tại của nghề
dệt vải may quần áo, các nơi gần bờ biển hay gần sông, người ta tìm thấy
nhiều ''viên chì'' ở lưới đánh cá, bằng đất nung, cũng có những viên bi bằng
đất nung để săn bắn bằng ống xì đồng.
Sự xuất hiện nông nghiệp và chăn nuôi được khẳng định qua việc phát
hiện những cái cuốc, những vò lớn bằng gốm dùng để đựng thóc, và những
xương lợn và xương trâu. Hình như đã có trồng lúa rẫy trên núi và trong
các ruộng nước ở đồng bằng, bởi Đông Dương vốn là một trong số những
vùng trồng lúa nước sớm nhất.
Nếu ở miền núi con người tiếp tục sống trong các hang động thì ở những
di chỉ mới phát hiện gần đây ở đồng bằng, người ta tìm thấy những di tích
nhà bằng gỗ và tre; kích thước nhà hình như chứng minh rằng đó là những
nhà tập thể. Di tích các nhà rải ra trên hàng nghìn mét vuông, một diện tích
tương đương với một làng hiện nay. Số lượng không đếm xuể những dụng
cụ tìm thấy ở những nơi ấy chứng tỏ sự có mặt của hàng nghìn người, họp
thành một bộ lạc, gồm nhiều thị tộc. Nhà chắc là làm theo kiểu nhà sàn,
như các vùng dân tộc thiểu số miền núi ngày nay. Lịch sử truyền thống kể
lại rằng ''tổ tiên chúng ta xây dựng những nhà có tầng gác để tránh bị hổ tấn
công''.