Những nhà nho theo xu hướng cách tân và phong
trào dân tộc
Đến năm 1900, cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài trong bốn chục năm từ
năm 1858 đến năm 1898, thực tế đã chấm dứt. Còn lại một bộ phận kháng
chiến tồn tại như một hòn đảo nhỏ ở vùng Yên Thế do Hoàng Hoa Thám
đứng đầu. Nhưng sự chống cự vẫn cứ tiếp tục không kém dưới những hình
thức mới với sự cổ vũ của những tư tưởng hiện đại và liên quan đến những
biện pháp bóc lột và áp bức thuộc địa. Đấu tranh chính trị xuất hiện ở các
thành thị với những cuộc biểu tình của nông dân và những cuộc bãi công
của công nhân nêu lên những yêu sách về kinh tế và chính trị cụ thể.
Các giai cấp xã hội mới, giai cấp công nhân và tư sản chưa đủ sức lãnh
đạo phong trào dân tộc và cũng vẫn là các nhà nho là những người đứng ra
khêu gợi và cổ vũ phong trào. Dưới ảnh hưởng của các sự kiện, những tư
tưởng mới đã xâm nhập các giới nho sĩ. Chẳng phải là các giáo sĩ, cũng
chẳng phải các binh lính của các nước phương Tây đã mang theo họ những
tư tưởng hiện đại về khoa học và dân chủ. Như chúng ta đã thấy chính
quyền thực dân đã ngăn cản việc dạy những tác phẩm văn học và triết học
của thế kỷ XVIII của Pháp. Những tư tưởng ấy, những tác phẩm ấy đặc biệt
của Montesquieu và Rousseau đều đã đến với các nhà nho Việt Nam thông
qua những bản dịch của Trung Quốc. Nước Trung Hoa bị các cuộc xâm
lược của phương Tây đột ngột và phũ phàng đánh thức. Vào cuối thế kỷ
XIX, đã bắt đầu có một phong trào cách tân. Những nhà nho tên tuổi Khang
Hữu Vi và Lương Khải Siêu đã dấy lên một phong trào cải lương nhằm đổi
mới xã hội truyền thống của Trung Quốc. Trong thập kỷ đầu của thế kỷ
XX, chính những tư tưởng cách mạng nhất của Tôn Dật Tiên đã thống trị
sân khấu chính trị Trung Quốc.
Các nhà nho yêu nước Việt Nam, sau khi tiếp xúc với những tư tưởng
kiểu mới ấy không còn chịu bằng lòng như trước đây chỉ giương cao những