VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ YẾU - Trang 143

c) Xưng danh là câu của một vai nói họ tên, chức nghiệp của mình. Thí dụ:
Phù Tề thất tổ tiên khai sáng
Mỗ tính pHàn, biểu hiệu Định công;
Chỉ hiềm hai chữ hiếu trung
Giữ vững một câu nghĩa khí.
(Sơn hậu)
Phụng thánh chỉ bình nhung,
Ngã Địch Thanh nguyên suý,
(Tống Địch Thanh)
c) Câu nói là những câu nói chuyện hoặc kể việc. Thí dụ:
Trại Ba
Nga văn sắc biến,
Hốt thính tâm kinh
Có đâu nên nên nỗi sự tình,
(Ối thôi!) hẳn đã ra lòng chí khí (rồi)
(Phu quân ơi!) tâm khổ hĩ, tâm khổ hĩ,
Lệ nan can, lệ nan can.
(Phu quân nỡ bỏ em mà đi rằng đành) ,
Nỡ phụ thề bích thủy thanh san
Mà tếch dặm sơn nhai hải giác (cho đành)
(Như phu quân tôi), bạc nên quá bạc,
Chồng hỡi là chồng!
(Em đây dám hỏi): rượu giao hoan mùi đã mặn nồng
Tình phân ngoại cớ sao bạc bẽo?
(Khi nào) phu quân nói cùng em: một ở Đơn, hai ở Đơn, ba bốn cũng ở Đơn.
Dây dưới nguyệt đã đành dan díu,
Chim ven trời đòi đoạn cao bay (là cao bay mần răng cho đành, phu quân ơi)
Ôi thôi! Vô duyên thay chút phận thuyền quyên !
Bất tình bấy cho người quân tử!
(Ai đi), bỏ vợ đó không ừ hữ, mà tôi giận đã hết khôn;
(Như tôi bây giờ), mất chồng đi khó nỗi bôn chôn, mà tôi thương đà quá dại.
Hay là tôi theo chân? Người ta không tưởng tới mình, mình còn theo mà làm
chi? Nhưng rứa mà nếu không theo thì mất chồng đi chứ (chẳng không) : đó đã

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.