Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng ,chung quanh mây vàng.
Ước gì anh lấy được nàng,
Thời anh mua gạch Bát tràng về xây.
Xây dọc, rồi lại xây ngang.
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
B) cũng có khi một bài kiêm nhiêù thể, như
1/ Phú và tỉ. Thí dụ:
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Bài này vừa tả hoa sen (phú), vừa ví người quân tử với hoa sen (tỉ) .
2/ Phú và hứng. Thí dụ;
Qua cầu ngả nón trông cầu,
Câù bao nhiêu dịp (nhịp), em sầu bấy nhiêu.
Bài này vừa tả cái câầ (phú), vừa mượn cảnh cái cầu mà nói nỗi sầu của mình
(hứng)
3/ Hứng và tỉ. Thí dụ;
Dao vàng bỏ đẫy kim nhung,
Biết rằng quân tử có dùng ta chăng?
Trong bài này, có mượn cao dao vàng để nói đến tình mình (hứng), vừa ví mình
như con dao vàng (tỉ).
4/ Phú, hứng và tỉ. Thí dụ:
Sơn bình Kẻ Gốm không xa,
Cách một cái quán ,với ba quãng đồng.
Bên dưới có sông,
Bên trên có chợ.
Ta lấy mình làm vợ nên chăng?
Tre già để gốc cho măng.
Toàn bài là thể hứng: bốn câu đầu là thể phú; câu cuối là thể tỉ.
Ý nghĩa: Ca dao nước ta thật là phong phú và diễn tả đủ các tình ý trong lòng
người và các trạng thái xã hội. Ta có thể chia làm mấy loại như sau: