thu sắc mệnh, cho thần được bãi chức về với làng với ruộng, hầu làm nguôi
bớt lòng oán giận của sĩ dân, cũng là để giữ tiết liêm sỉ của thần vậy.
Vua xem lời tâu. sai triệu (Đỗ Quang) vào và dụ rằng: -Trẫm đã biết tấm
lòng của Đỗ Quang, nhưng Đỗ Quang cũng cần phải biết cho tấm lòng của
trẫm nữa chớ. Không nên làm như thế.”
Lời bàn
Tình thế của Nam Kì lúc ấy thật éo le, trung quân và ái quốc không còn
hợp làm một như xưa nữa. Yêu nước là phải đánh Pháp, mà đánh Pháp thì
phải bất tuân mệnh lệnh của triều đình. Trước cuộc giằng xé đầy bi kịch ấy,
không phải ai cũng đủ bản lĩnh để ở lại chiến đấu cùng nhân dân, không
phải ai cũng có thể làm được như Trương Định.
“Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền;
Theo bụng dân phải chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn
(Nguyễn Đình Chiểu: Văn tế Trương Định)
Đỗ Quang gạt nước mắt mà dứt áo ra đi, giữ được đức trung quân thì lại
phải nhói lòng vì bạc nghĩa với sĩ dân Nam Kì đang ngoan cường chống
Pháp. Ông cảm thấy hổ thẹn, ngửa mặt không dám nhìn trời, cúi xuống
chẳng dám nhìn đất, ngơ ngẩn bởi cho rằng liêm sỉ của mình đã bị mất. Với
ai, đó có thể chỉ là lời chữa thẹn sáo rỗng, nhưng với Đỗ Quang, đó thực sự
là cả một nỗi lòng.
Vua Tự Đức nói: -Trẫm đã biết lòng của Đỗ Quang, nhưng Đỗ Quang
cũng cần phải biết cho lòng của trẫảm nữa chớ. Không nên làm như thế.
Lòng của Vua ư? Thật khó mà hiểu thấu. Trên trang sử này cho thấy
bàng bạc một nỗi u hoài khó tả của Đỗ Quang.