22. Di chiếu của Lý Nhân Tông
Lý Nhân Tông (1072-1127), húy là Càn Đức, con trưởng của vua Lý
Thánh Tông (1054-1072), mẹ đẻ là Ỷ Lan Thái phi. Vua sinh vào tháng 1
năm Bính Ngọ (1066). Càn Đức chào đời hôm trước thì ngay ngày hôm sau
được phong làm Thái tử và đến năm lên 6 tuổi (Nhâm Tí – 1072) thì được
lên nối ngôi. Chân dung vua Lý Nhân Tông được sách Đại Việt sử kí toàn
thư (bản kỉ, quyển 3, tờ 6-b) miêu tả đại lược như sau:
“Vua trán dô, mặt rồng, tay dài quá gối, sáng suốt thần võ, trí tuệ hiếu
nhân, nước lớn sợ, nước nhỏ mến, thần giúp, người theo, thông âm luật, chế
ca nhạc, dân được giàu đông, mình được thái bình, là vua giỏi của triều
Lý”.
Lý Nhân Tông ở ngôi 56 năm, thọ 62 tuổi, là vị vua trị vì lâu nhất trong
lịch sử Việt Nam. Nhưng, Lý Nhân Tông bất diệt không phải là chỗ trị vì
lâu dài, mà là ở lời di chiếu chứa chan lòng yêu nước, thương dân. Cũng
sách trên (tờ 25-b và 26-b) đã trang trọng ghi lại lời di chiếu ấy. Xin trích
hai đoạn. sau đây:
“ …Trẫm nghe, phàm các loài sinh vật, không loài nào là không chết.
Chết là số lớn của trời đất và lẽ đương nhiên của mọi vật. Thế nhưng người
đời chẳng ai không thích sống mà ghét chết. Chôn cất hậu làm mất cơ
nghiệp, để tang lâu làm tổn tính mệnh, trẫm không cho thế là phải. Trẫm ít
đức, không lấy gì làm cho trăm họ được yên, đến khi chết đi lại khiến cho
thứ dân mặc áo xô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, bỏ cúng tế … làm
cho lỗi ta thêm nặng, thiên hạ sẽ bảo ta là người thế nào? Trẫm xót phận
tuổi thơ phải nối ngôi báu, ở trên các vương hầu, lúc nào cũng nghiêm kính
sợ hãi. Đã 56 năm nay, nhờ anh linh của tổ tông, được hoàng thiên phù hộ,
bốn biển yên lành, biên thùy ít biến, chết mà được xếp sau các bậc tiên
quân là may rồi, còn phải thương khóc làm gì?”
“…Việc tang thì chỉ ba ngày là bỏ áo trở, nên thôi thương khóc. Việc
chôn thì nên theo Hán Văn Đế
, cốt phải kiệm ước, không xây lăng mộ
riêng, nên để ta hầu bên cạnh tiên đế. Than ôi! mặt trời đã xế, tấc bóng khó