Lời bàn
Phàm là tướng, nhất là tướng của thời trận mạc triền miên, cốt cách của
họ có thể thiếu mặt này mặt nọ, song, quyết không thể thiếu dũng và mưu.
Vô dũng, không thể ra trận, vô mưu ắt sẽ bi đối phương lừa như lừa đứa trẻ
con.
Vâng mệnh Chúa ra trấn giữ chốn biền thùy là nơi ác liệt nhất, rõ là
Nguyễn Hữu Dật cũng thuộc hàng dũng tướng. Ấy là chưa kể trước đó ông
đã bao phen xông pha trận mạc, cái dũng nào phải chỉ gồm chừng đó đâu.
Trá hàng để đánh lừa đối phương, khó có thể nói đó là diệu kế, nhưng,
đó cũng là mưu. Xem suốt hành trạng một đời cầm quân của ông, hậu thế
cũng có thể xếp ông vào hàng những tướng mưu lược. Tiếc thay, Nguyễn
Hữu Dật lúc này đã phạm một lúc hai sai lầm khó tha thứ. Một là mưu lớn,
có can hệ đến vận mệnh của xứ Đàng Trong mà ông bỏ qua việc bẩm xin
mệnh Chúa. Hai là ông cũng chẳng bàn bạc gì với những người cộng sự có
trách nhiệm. Hóa ra, sự hiềm khích đôi khi vẫn có thể làm cho người ta mất
sáng suốt.
Tôn Thất Tráng chỉ vì hiềm khích riêng mà vu hãm, đẩy người trung
chính vào chốn tù ngục, tội thật khó dung tha. Khiếp thay cái lưỡi lắt léo
của lũ tiểu nhân, nó có thể đẩy vị dũng tướng đa mưu vào chỗ chết, nghĩa là
có thể làm được việc mà binh hùng tướng mạnh của đối phương không dễ
gì làm được. Trách Nguyễn Hữu Dật cớ sao không lo phòng bị từ trước ư?
Thì cũng đúng vậy, nhưng ở đời, thử hỏi là còn có gì rẻ rúng hơn, khi mà ta
phải luôn luôn cảnh giác với đồng liêu và bè bạn của mình?
May sao, Chúa sớm nhận ra, đâu là lời gièm pha, đâu là lời của bậc trung
nghĩa. Sự hơn thua cao thấp của đấng chăn dân, thường thì cũng ở chỗ tỉnh
táo như thế đó thôi.
Khéo khen Nguyễn Hữu Dật có tài văn chương. Bị tống giam mà vẫn
ung dung tự tại, cảm khái mà viết nên lời thống thiết, khiến cho Chúa phải
nhận ra lỗi lầm của mình, cổ kim được vậy, chẳng phải là nhiều đâu. Cũng
khéo khen chúa Nguyễn Phúc Tần thông hiểu văn học, chẳng vậy, có khi