29. Ngôi vương đầu tiên của xứ Đàng Trong
Sách Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 10:
“Giáp Tí, năm thứ sáu (tức năm 1744 – ND), mùa hạ, tháng tư. Bấy giờ,
nhân thấy có cây sung nở hoa, ai cũng cho là điềm tốt, cho nên, bọn bề tôi
là Nguyễn Đăng Thịnh dâng tờ biểu, xin Chúa lên ngôi vương. Tờ biểu ấy,
đại lược nói rằng: Buổi đầu đổi mới, trước phải cần chính danh; Tích đức
đã trăm năm, tất phải sửa lễ nhạc; Ôi, nghiệp bá vững bền, phía đông nam
cờ vàng xuất hiện; Ngôi vương xa thấy, Bắc phương kia ấn ngọc hiện rồi.
Nay, bọn bề tôi xin sắp hàng mà tâu rõ: Các vì sao đã chầu về Tử Vi, mặt
trời đã đi vào Hoàng Đạo. Xưa, chỉ bảy mươi dặm mà (nhà Thương) cũng
dựng nên nền huyền điểu
, giờ đây, lẽ đâu đã có những ba ngàn dặm dư
đồ mà vẫn cam giữ phận hàn khê?
Chúa nhún nhường không chịu nhận. Bọn bề tôi phải nài xin đến hai ba
lần, Chúa mới nghe theo. Ngày Canh Tuất (tức ngày 13 tháng 4 năm 1744 –
ND) đúc xong ấn Quốc Vương. Trước kia, khi cần bổ dụng quan lại. Chúa
chỉ dùng hai chữ Thị phó, phía dưới đóng dấu kiềm, ghi bốn chữ Thái phó
Quốc công
và dùng ấn Tổng trấn Tướng quân
Ngày Kỉ Mùi (tức ngày 12 tháng 4 năm 1744 – ND), Chúa lên ngôi
vương ở phủ Phú Xuân, xuống chiếu đại xá toàn cõi”.
Sách trên cũng chép lại tờ chiếu đại xá lúc lên ngôi vương của chúa
Nguyễn Phúc Khoát. Sau khi dẫn đủ điển xưa tích cũ, phần kết của tờ chiếu
có đoạn như sau:
“Thầm nghĩ, nước chưa thống nhất, giặc dã chưa dẹp xong, ta vẫn gắng
noi gương tiên thế. Chẳng ngờ, người người đồng tâm, thần lại báo điềm
tốt, tất cả ân cần thúc giục ta xưng vương. Vừa rồi, trên dưới đều tin, thứ
lớp rành mạch. Như theo hào bốn quẻ Kiền
thì thấy rõ tượng rồng nhưng
còn khiêm tốn chờ thời đó thôi; Như theo hào ba quẻ Khôn
hình ngựa tốt đi nhanh, nên ai cũng mọt lòng giúp rập. Mặc dầu đã thoái
thác đến ba bốn lần, vẫn khó ngăn được nguyện vọng của thần dân, nên ta
buộc phải thuận theo ý chúng. Cho nên, ngày 12 tháng 4 năm nay (tức năm