Bắc Giang làm sông Thiên Đức và con sông này chảy về sông Lục Đầu vốn
là một chi lưu của sông Nhị Hà đi qua huyện Đông Ngạn và Quế Dương.
Việc triều nghi, quan lại cũng định lại. Nông nghiệp được chấn hung và
khuếch trương do đó có việc đấp đê Cơ Xá để tránh thủy tai hàng năm làm
hại mùa màng và gây sự thiệt hại cho quốc gia.
Lý Công Uẩn cũng rất săn sóc đến việc văn học. Ông cho lập nhà Văn
Miếu để tôn sung Nho học và mở khoa thiTam Giáo (Khổng Giáo, Phật
Giáo, Lão Giáo). Vì nhà vua xuất thân ở cửa Phật nên Phật giáo kể từ nhà
Lý rất được trọng đãi và khuyến khích. Ông cho sưu tầm kinh Tam Tạng để
truyền bá đạo Phật trong dân gian. Luật pháp cũng được quy định.
Ngài xuất hai vạn quan tiền để dựng 8 ngôi chùa ở trong phủ Thiên Đức
và tại Thăng Long lập chùa Thiên Ngự, chùa Vạn Tuế, cung Thái Thanh.
Ngoài thành Thăng Long ngài cho xây chùa Thắng Nghiêm, Thiên Vương,
Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thổ, Thiên Quang, Thiên Đức. Ở các địa hạt
khác các chùa bị đổ nát đều được tu bổ.
Tháng chạp năm thứ nhất hiệu Thuận Thiên (1010) cung Thúy Hoa
dựng xong, có lễ khánh thành và ban chiếu đại xá. Mọi việc thuế má đều
được miễn trong ba năm. Dân chúng vì thiếu thuế mà phải lẩn trốn và siêu
bạt đều được trở về sinh quán làm ăn. (Xét việc này ta thấy dân chúng bấy
giờ cơ khổ nhiều lắm). Một số phạm nhân dưới đời Lê Ngọa Triều cũng
được phóng thích và cho đủ quần áo, thuốc men để trở về xứ sở.
Lý Thái Tổ chia nước ra làm 24 lộ (cùng năm ấy) Hoan Châu và Ái
Châu đổi làm Trại, thêm vào đó một trại mới ở phía Nam Châu Hoan gọi là
trại Định Phiên.
Năm thứ 7 hiệu Thuận Thiên (1016) trong nước được mùa, vua Lý Thái
Tổ lại tha thuế 3 năm nữa, năm thứ 9 tức là 2 năm sau lại có việc tha thuế
ruộng một lần nữa.