hàng, phần chạy xuông sông bị chết đuối rất nhiều. Được tin quân mình bị
phục binh của địch đánh ráo riết, quân của Hồ xạ ở mặt sau không chịu tiến.
Hồ Vấn phái người đến trách, bấy giờ Hồ Xạ mới cho quân lên nhưng cũng
bại nốt.
Sau trận này, đại quân của nhà Hồ tan rã gần hết. An phủ sứ Bắc Giang
là Nguyễn HyChu bị bắt. Hy Chu chửi Trương Phụ và bị giết chết. Còn Quý
Ly và Hán Thương cùng một số người chạy ra bể lui về Thanh Hóa.
Quân Minh đuổi theo kịp đến Lội Giang (là một con sông nhỏ ăn vào
sông Mã), quân Hồ bấy giờ mất hết tinh thần nên không đánh mà tan. Giữa
lúc nguy cấp, tướng Hồ là Ngụy Thức nói:
- Nước mắt rồi, làm vua không nên chết vì tay người, Bệ hạ nên tự đốt
đi là hơn!
Quý Ly giận lắm cho chém Ngụy Thức[1] rồi chạy vào Nghệ An. Tháng
5 năm ấy (1407), Quý Ly và Hán Thương đến cửa Kỳ La (nay thuộc huyện
Kỳ An, tỉnh Nghệ An). Trương Phụ cử Mộc Thạnh dẫn lục quân, Liễu
Thăng lĩnh thủy quân bằng đường bộ đuổi theo.
Ngự đạo được các kỳ lão ra yết kiến và tâu:
- Xứ này tên là Cơ Lê, có núi tên là Thiên Cầm, đó là điềm không lành,
xin nhà vua chớ lưu lại ở đây (chữ Cơ Lê là trói họ Lê. Thiên Cầm là trời
bắt. Sự thật các kỳ lão đã có ý đọc trệch chữ Kỳ La ra Cơ Lê. Chữ Thiên
Cầm chỉ có nghĩa là đàn trời. Tương truyền ngày xưa vua Hùng Vương đi
chơi qua đấy nghe tiếng sáo trời bởi gió hút qua các khe núi nên đặt tên núi
là Thiên Cầm).
Quý Ly hiểu rõ tên sông núi Thanh Nghệ, biết rằng bọn phụ lão nguyền
rủa mình, giận lắm cho chém hết. Ít lâu quân Minh thủy bộ kéo đến nơi bắt
được Quý Ly ở núi Thiên Cầm, ngày hôm sau bắt được Hán Thương với
con là Nhuế Lỗ ở núi Cao Vọng cũng thuộc về Kỳ Anh. Các đại thần tướng