Đó là điều vô cùng vinh hạnh cho nòi giống Việt Nam. Nhưng đến đời
Minh Thế Tông (1522 – 1566) con mắt của Bắc phương lại bắt đầu dòm
ngó về phương Nam vì một số cố thần nhà Lê đã sang cáo tỏ mọi việc biến
loạn trong nước. Thêm vào đó có vụ này:
Năm Gia Tĩnh 15, mùa Đông nhà vua sinh hoàng tử, theo lệ thường ban
chiếu cho các nước phụ thuộc biết để đến mừng. Lễ Bộ là Hạ Ngôn trình:
Nước An Nam bỏ cống từ hai chục năm nay…Nhà vua có ý bất bình rồi
vấn đề Nam chinh được đặt ra bàn đi xét lại hàng tháng. Tuy đa số đình
thần không tán thành như trên đã nói, vua Minh vẫn quyết định việc xuất
binh “hỏi tội”. Vua cho Hạ Ngôn họp bàn với Binh bộ để tổ chức việc xâm
lược, một mặt cho hai quan Cẩm Y qua xét tình hình Việt Nam, mặt khác ra
lệnh cho quan trấn các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam chỉnh đốn
quân lương đợi ngày hưng sự. Công tác cật vấn tội danh giao cho Thiên hộ
Đào Phượng Nghi. Các tỉnh Tứ Xuyên, Hồ Quảng, Phúc Kiến, Giang Tây
cũng phải dự trữ các thứ quân nhu để cung cấp cho đoàn quân “Nam phạt”.
Bộ Lễ và Bộ Binh sau đó đã ra chỉ thị cần thiết cho các tướng lĩnh viễn
chinh.
4 – Một Cuộc Chiến Tranh Tâm Lý
Quân đội của Cừu, Mao tới Nam Quan thì ngừng lại. Họ cũng tung ra
lời hịch như bọn tiền bối[2] của họ, rất thương dân An Nam và thương họ
Lê rồi hứa ai bắt được cha con họ Mạc sẽ được thưởng hai vạn lạng bạc và
quan tước. Bề khác, họ đưa thư lại cho Mạc Đăng Dung đòi phải sang nộp
sổ sách điền thổ thì được tha chết.
Theo Việt Nam Sử Lược (trang 273): “Đến ngày 11 tháng 5 Canh Tý
1540, Mạc Đăng Dung thấy quân Minh sửa soạn sang đánh, sợ hãi quá
chừng, bèn để Mạc Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng bọn Vũ Như Quế cả
thảy hơn 40 người, tự trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam Quan, lậy
phục xuống đất để nộp sổ sách điền thế và sổ dân đinh, lại xin dâng 5 động