cấp. Họ bện tóc quấn quanh đầu và búi thành một búi tóc to ở sau gáy,
ngoài bịt một chiếc khăn màu nhỏ để giữ cho chặt.
Họ không biết đi giày, guốc. Giầy, nón là sau khi có người Tàu đem
sang, ta mới có. Tính thích trang điểm, họ đeo đầy cổ và chân tay những
vòng bằng đồng, xương hổ phách hay đồi mồi.
Đối với khách lạ, dân Việt rất tử tế ân cần. Họ ưa mời ăn uống, coi
khách như người trong nhà. Lệ tiếp khách bao giờ cũng có cơi trầu, chén
nước, đôi bên vừa nói chuyện vừa ăn trầu. Cũng vì tính hay ăn trầu nên họ
có tục nhuộm răng. Điều này có lợi là răng được bền chặt thêm và nếu giữ
gìn răng cứ đen nhánh mãi.
Bàn về phong tục của dân ta, chúng tôi phải nghĩ tới bài khảo luận về
văn hóa Đông Dương (Les civilisations de I’Indochine) của ông G. Coedès.
Nhà khảo cổ này đã nhận thấy ở dân tộc chúng ta không phải chỉ có những
phong tục thuần túy “Trung Quốc” mà từ vua chúa đến dân thứ của ta hầu
hết đều theo cả; ở nơi chúng ta còn có những phong tục trong gia đình,
ngoài làng mạc như những việc thờ thần ở đình, miếu khác hẳn Trung
Quốc. Những phong tục này có trước khi người Tàu qua đây, và tồn tại đến
ngày nay mặc dầu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc trên mảnh đất này
khá mạnh.Ông Coedes ngờ rằng trước khi văn học Trung Quốc du nhập vào
đây (đầu thế kỷ thứ hai trước Thiên Chúa) người Việt Nam chúng ta đã chịu
ảnh hưởng của nền văn hóa Nam Á (Austro Asiatique) nên mới có những
phong tục riêng biệt này. (Đáng chú ý có nhiều phong tục cùa Tàu trên đất
Việt mà chính người Tàu cận lai không còn giữ nữa).
Nhận xét này được nhiều học giả hiện đại cho là đúng vì văn hóa Ấn Độ
đã đặt dấu vết và ảnh hưởng ở miền Nam Á (nói chung) và miền Nam Đông
Dương (nói riêng) trước khi người Trung Quốc có mặt ở Bắc Việt ít nhất
trên một thế kỷ, tức là vào khoảng thế kỷ thứ nhất theo Thiên chúa kỷ
nguyên. Ngoài ra người Giao Chỉ đến Bắc Việt lại không phải là những
người đầu tiên. Ông cha chúng ta đi dần xuống đây xua đuổi người thổ