thì người em út phải lấy chị dâu để cáng đáng mọi việc thay anh và trôm
nom các cháu. Các nhà chép sử cho rằng tục này phát sinh vì lý do kinh tế,
tức là không muốn người dàn bà trẻ tái giá đem của cải và con cái của bên
chồng đi. Phong tục này còn đến cuối đời Hán vẫn còn và có lẽ đã bị bãi bỏ
trong thời Nhậm Diên, Sĩ Nhiếp và Tích Quang là những người có nhiệm
vụ du nhập văn hóa Trung Quốc vào đất này và thủ tiêu những tập tục của
dân bản thổ.
Buổi nguyên thủy người Việt sống theo chế độ bộ lạc tức là sống trong
tình trạng dã man. Đời sống lại không có phong tục và đạo đức như trên đây
đã nói rõ, và sự xúc tiếp giữa các bộ lạc đã xây dựng trên sức mạnh tàn bạo.
Các bộ lạc yếu phải tòng phục các bộ lạc mạnh, do đó chế độ phong kiến ra
đời cho tới sau này họ Hồng Bàng, một bộ lạc mạnh nhất xuất đầu lộ diện
ngự trị tất cả các bộ lạc khác (xin coi dưới đây cội rễ của họ Hồng Bàng).
Về y phục, người thượng cổ khi chưa biết dệt vải, may áo đã sống trần
truồng, rét mướt thì lấy lá hay vỏ cây che thân. Sau này có nghề dệt mới
biết đóng khố, quấn khăn, mặc quần áo. Người bình dân khi xưa lúc ở nhà
chỉ đóng cái khố và mặc cái áo ngắn. Đàn bà mặc thêm cái váy. Có lẽ từ
giai đoạn người Việt biết đóng khố, biết làm nhà cửa, biết dùng đồ kim khí
là khi đã có tiếp xúc với các dị tộc, nhất là người Hán văn minh hơn họ. Tuy
vậy y phục của họ rất là đơn giản do xứ ta thuộc vùng nhiệt đới, nóng nhiều
rét ít. Ngày nay người ta tìm thấy trên mặt cá trống đồng, cá tảng đá hình
người ở trên, đóng khố, đầu đội mũ bằng lông chim. Có thể đây là những di
tích về hình ảnh người Việt Nam cổ. Còn khi người Trung Hoa sang chinh
phục chúng ta, bấy giờ sự ăn vận mới bắt đầu tề chỉnh và đồng thời nông
nghiệp của ta trở nên thịnh đạt. Ta biết búi tóc hay quấn khăn, mặc áo khép
về tay phải hay mở ở giữa. Y phục của người Mường, Thổ ngày nay có lẽ là
y phục của ông cha chúng ta thuở xưa.
Phần đông hạng bình dân cắt tóc ngắn để làm lụng, chỉ có đàn bà và các
nhà quý phái mới để tóc dài cũng do ý muốn làm dáng và để phân biệt giai