làng xóm, hương thôn vui chơi ăn uống, nhai trầu nói chuyện. Trầu cau là
một món cần trong sự xã giao vậy.
Về trầu cau có một chuyện cổ tích rất là cảm động lâm ly: Vào thời
thượng cổ hai an hem nhà họ Cao thương yêu một người con gái; Người
anh lấy được cô gái đó khiến người em đau đớn tuyệt vọng bỏ ra đi. Rồi
người anh đi tìm em, vợ đi tìm chồng, rút cục ba người vì thương nhau
trong cái nghĩa an hem chồng vợ quá thiết tha mà chết cả. Kẻ hóa ra hoàn
đá vôi, kẻ hóa ra cây cau, kẻ thành cây trầu quấn quít lấy nhau. Người ta
đem nhai quả cau và lá trầu cùng vôi (của hòn đá) thì thấy thành một chất
đỏ tươi, vị đậm đà, phải chăng là cả mối tình thương yêu chân thật, thật có ý
nghĩa vô cùng.
Về việc hôn nhân của người việt chúng ta xưa kia thì lập gia đình chẳng
phải là để cùng mưu cuộc sống mà thôi. Hôn nhân còn có ý nghĩa vì người
chết hay người sẽ chết nữa. Lấy nhau, người Việt có lẽ nghĩ trước hết vấn
đề sinh con đẻ cái để có người lo việc khói hương cho tổ tiên và cả cho
mình sau này nữa. Không người kế tự, đó là một sự đau đớn, nhục nhã hết
sức cho người Việt, và đấy cũng là một căn nguyên của chủ nghĩa đa thê
ngoài ảnh hưởng của chế độ phong kiến. Người Việt tin rằng người chết
nhưng linh hồn còn phảng phất ở chốn nhân gian do sự luyến tiếc con cháu,
thì là sự mong mỏi người chết phù hộ cho kẻ sống, mối tin tưởng ở hầu hết
các tầng lớp dân tộc chúng ta từ xưa đến nay.
Người chết, vào thời thượng cổ, xác còn phải quàn ở trong nhà. Người
nhà đục gỗ làm áo quan, hàng ngày dâng cơm nước thờ phụng như khi còn
sống (phong tục này các đồng bào thiểu số nhất là dân Mường, Thổ vẫn còn
giữ đến bây giờ). Lúc đem chôn cũng phải chôn theo đồ ăn, thức đựng linh
hồn khỏi phải thiếu thốn (tục đót vàng mã đã do quan niệm này, bây giờ gần
mất hẳn).
Trước khi Khổng Giáo tràn qua và có ảnh hưởng nhiều vào văn hóa của
chúng ta, chúng ta còn tập tục này nữa: nếu trong một nhà người anh chết đi