đến ngày nay cũng hãy còn lác đác ở các thôn quê Việt Nam, cũng như ở
nhiều bộ lạc da đen (châu Phi, châu Mỹ hay châu Á).
Thời gian trôi qua, người cổ của chúng ta mỗi ngày một tiến rồi một
ngày kia biết lặn lội trong những khoảng ruộng bùn lầy, tưới những giọt mồ
hôi xuống đất cứng để sinh sống. Bấy giờ chưa có gia súc, chưa có dụng cụ
tinh xảo, họ trần lực lấy sức tay chân tranh đấu với Thiên Nhiên. Họ đẽo đá
làm thành những lưỡi cuốc nhọn để sới đất khô và đập cho nhỏ chờ lúc
nước sông tràn vào ruộng, ruộng sẽ có bùn ngầu cho họ gieo giống. Họ biết
tháo nước ra vào để khỏi nạn úng thủy hay thiếu nước. Gần bể về mùa
hanh, họ biết dùng mực nước thủy triều lên xuống ở các ngành sông để lấy
nước vào ruộng. Nhờ vậy ngay thời bấy giờ tại Trung Châu Bắc Việt đã có
nơi làm ruộng được cả hai mùa. Sau này sum họp với người Tàu họ biết
dùng lưỡi cày sắt và trâu bò.
Vào thời cổ miền Trung Châu Bắc Việt đâu có ruộng lớn như ngày nay.
Đầm lầy, gò đống còn rải rác khắp nơi vì chưa khai thác, nhiều đồ nông
nghiệp còn manh nha. Ngoài bờ biển và các cửa sông lau sậy cùng cây sú
mọc đầy, rừng cây um tùm ở các đồi núi. Người cổ ở thưa thớt tại các thung
lũng và các miền ruộng hợp thành từng làng, từng xóm. Năm bảy chục nóc
nhà tranh, vách đất quay tụ im lìm sau những lũy tre cao ngất. Ngoài làng là
những cánh đồng, không có đồn trại, thành thị, phố phường gì hết.
Sông Nhị Hà bấy giờ là mạch máu chính nếu ta xí vùng Trung Châu là
cái thân. Con sông này đã bồi đắp nên mảnh đồng bằng hàng năm, bằng
những lớp phù sa trở qua các thác ghềnh từ miền núi Vân Nam đem về nuôi
nấng trang điểm đứa con nuông. Sóng bể Đông hãy còn rào rạt ở ngoài
đồng bãi thuộc tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An bây giờ. Hai chục thế
kỷ qua, chỗ đất liền tiến rộng ra miền nước mặn được hàng trăm cây số mở
rộng Trung châu thêm được mấy tỉnh. (Đại để hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn
cách đây trên dưới 100 năm còn là vùng biển rồi bỗng hiện lên nhiều làng
mạc sầm uất như do một phép lạ).