May nhờ được rảnh rang trên nửa thế kỷ, Nam Hà xây dựng tổ chức
được mọi việc trở nên hùng mạnh không thiếu về một phương diện nào, thì
sự kình địch, sự ghen ghét giữa hai họ càng nảy nở thêm lên cho tới năm
Canh Thân (1620) cuộc xung đột bằng sắt máu bùng ra không còn che đậy
nữa.
Quân lực của Trịnh – Nguyễn nếu so sánh có khác nhau nhiều. Những
giáo sĩ ngoại quốc từng ở Việt Nam thuở đó kể rằng bộ binh của Bắc Hà có
tới 100.000 người, 500 thới voi, 500 chiến thuyền lớn, mỗi chiến thuyền có
ít nhất là 3 chiếc thần công (đại bác) yểm hộ. Theo A. de Rhodes, lực lượng
thủy quân này với sự mau lẹ của hỏa lực có thể khuất phục được cả chiến
hạm Âu Châu thường vãng lai trên bờ biển Trung Hoa thuở đó.
Về quân lực của nhà nguyễn, cá sử của ta không thấy nói rõ rệt mà các
nhà viết sử ngoại quốc cũng không đưa ra được những con số nào khả dĩ
chuẩn đích, người ta chỉ biết rằng Nguyễn ít lính và chiến thuyền hơn Trịnh,
bởi sông ngòi ở đây chật hẹp nên chúa Nguyễn không tính đến thủy chiến
chưng? B. Vachet trong cuốn ký ức lục về Nam Hà do Linh Mục L.Cadière
xuất bản năm 1943 (Mémoire sur la Cochinchine)nói tuy vậy trong năm
1674 các chúa Nguyễn có 133 chiến thuyền, nhưng lục quân của họ Nguyễn
đáng kể hơn cả. Các giáo sĩ cũng nói Nguyễn có tới 40.000 quân chia ra
như sau: 15.000 canh phòng biên giới – 9.000 đặt tại Kinh Đô – 6.000
phòng vệ Hoàng Gia và các thân vương – 1.000 trấn các tĩnh.
Nhờ sự giao dịch với người Bồ Đào Nha, có thể Nguyễn đã tu chỉnh
được một phần nào về vũ khí của mình như đóng tàu chiến, đúc súng đại
bác và xây thành đắp lũy rất là kiên cố để chống nhau với quân Bắc. Và nói
đến thành lũy là nói đến lũy Tường Dục và thành Đồng Hới do Đào Duy Từ
kiến thiết quả đã bảo vệ được miền Nam rất có nhiều hiệu lực, nếu không,
với những cuộc tấn công ào ạt của miền Bắc, tình thế của Nam Hà khó mà
giữ vững.