chính quốc, chính phủ Đông Pháp, kinh nghiệm từ cuộc đại chiến đầu tiên,
đã bắt các quốc sự phạm đem đi an trí ở các nơi như trên đã nói, vậy mà
nhiều cuộc bạo động vẫn tung ra ngay sau đó.
Ở Nam bộ, Lê Hồng Phong cùng vợ là Nguyễn Thị Minh Khai hô hào
dân chúng khởi nghĩa. Ở Đô Lương, ông đội Cung chỉ huy bảo an binh
chiếm đồn. Phục quốc quân do cụ Trần Trung Lập theo quân đội Nhật về
hoạt động ở Lạng Sơn. Tình thế trở nên rối ren hơn bao giờ hết. Dân chúng
đau khổ vô cùng vì cái nạn nộp thóc cho Nhật dùng, cho chính phủ Đông
Pháp dự trữ để chờ sự đổ bộ của quân đội Đồng Minh. Một phần lớn ruộng
đất bị trưng dụng để trồng thầu dầu, đay gai hầu cung ứng cho kỹ nghệ
chiến tranh Nhật. Quan lại được dịp bóp nặn, dân chúng vôc ùng điêu đứng,
từ nơi thôn quê cùng tận đến chốn thị thành, dường như tới mức không thể
chịu đựng được nữa. Thêm vào đó, một nạn đói không tiền khoáng hậu,
khốc liệt quá sức tưởng tượng đã diễn ra: ngót hai triệu người chết la liệt
khắp các bờ bến, ven đường, xó chợ, suốt từ miền Trung ra tới miền Bắc.
Ngoài Bắc phần bị hại nhiều nhất. Cảnh ngộ bi đát đến như vậy đã thúc dục
mọi người đứng dậy tìm sinh lộ cho cuộc sống bế tắc, đầy kinh khủng.
Từ 1940 đến 1945,máu bắt đầu chảy, tang tóc mịt mù khắp bầu trời Việt
Nam. Lòng người Việt đang sôi nổi căm hờn gần hóa điên, hóa dại thì sang
ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật đánh úp đế quốc Pháp tại Đông
Dương. Sau 24 tiếng đồng hồ, bộ máy cai trị của chế độ cũ bị xụp đổ và
trên các nẻo đường, người Nhật dán đầy những bản tuyên cáo kết liễu chính
quyền của Pháp và tung ra khẩu hiệu “Châu Á của người Á”. Cái chiêu bài
đó quả rất dễ nghe khi mà người da vàng đã quá chán chường cuộc tình
duyên bất đắc dĩ với người da trắng suốt 80 năm ròng. Từ kẻ bình dân đến
người trí thức, tất cả đều hướng về phía lá cờ mặt trời đỏ. Nhưng với một số
người sành chính trị, người ta hiểu thế nào là chủ nghĩa Đại Đông Á trên
đất Trung Hoa với hơn 450 triệu người Hán trước đó không lâu.