mà chết. Việc này có ảnh hưởng rất lớn tới tinh thần dân tộc ta ở trong nước
vì bấy giờ quốc dân có vẽ thờ ơ, chán nản với việc chống Pháp.
- Năm 1924-1925, nhiều đảng phái cách mạng được tổ chức ra. Thoạt
tiên là Việt Nam chi bộ của hộ Á Tế Á Áp Bức Nhược Tiểu Dân Tộc thành
lập ở Quảng Đông do Nguyễn Ái Quóc và Lâm Đức Thụ chủ trương. Một
chi bộ hoạt động ở Việt Nam sau đổi ra Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng
Đồng Chí Hội như trên đã nói.
- Ở Ba Lê (Paris) có đảng Việt Nam Độc lập do ông Nguyễn Thế Tuyên
tổ chức trong giới sinh viên và anh em làm tàu biển. Năm 1926 Tân Việt
Cách Mạng Đảng tức Phục Việt cũ hoạt động ở Hà Tĩnh và Sài Gòn. Năm
1927, nhóm Nam Đồng Thư xã có Phạm Tuấn Tài, Hoàng Phạm Trân tức
Nhượng Tống, Nguyễn Thái Học lập ra Việt Nam Quốc Dân Đảng. Năm
1928 Tạ Thu Thâu và Nguyễn An Ninh lập Đệ Tứ Quốc tế. Năm 1929 Việt
Nam Cách Mạng Đồng Chí Hội đổi ra Đông Dương Cộng Sản Đảng. Năm
1930, Việt Nam Quốc dân Đảng khởi nghĩa ở Yên Bái vào mùng 10 ngày
12 bị thất bại. Đế quốc thực dân ra tay khủng bố. Mười ba yếu nhân
VNQĐD bị lên đoạn đầu đài vào ngày 17-6-1930, còn hàng ngàn đảng viên
bị đày đi Côn Đảo, Sơn La và Lao Bảo. Từ năm 1931-1932, khắp Nam
Bắccó những vụ biểu tình do đảng Cộng Sản bí mật tổ chức bị lính Lê
Dương đàn áp rất tàn nhẫn. Năm 1937, Mặt Trận Bình Dân bên Pháp lên
cầm quyền thì các nhà cách mạng thuộc các đảng phải đều đứng lên công
khai lập Đông DƯơng Đại Hội Nghị yêu cầu cải cách chính trị và giải
phóng các quốc sự phạm. Pháp chịu nhượng bộ khá nhiều bằng cách ưu đãi
quốc sự phạm, kiếm việc cho họ làm.
- Năm 1940 cuộc Đại chiến Đệ nhị xảy ra, quân đội của Thiên Hoàng
tiến vào Việt Nam thì Phục quốc quân của ta đánh chiếm Lạng Sơn nhưng
vì Nhật không hết lòng giúp đỡ nên ít tuần sau, Pháp điều đình xong được
với Nhật, liền vây đánh tan quân cách mạng. Chủ tướng là Trần Trung Lập