nhịn đói. Chắc anh không muốn vào trường đó và tôi cũng không muốn
làm bạn học với anh. Vậy anh tính thế nào?
Cái hy vọng lớn lao của tôi đã làm cho tôi quên hẳn Phú-Lợi. Tất cả những
điều Mã-Tư vừa nói có thể xảy ra được. Phải tránh cái nguy hiểm đem nộp
mình cho Phú-Lợi.
Tôi hỏi anh:
- Ý anh thế nào? Anh không muốn vào Ba-Lê?
- Tôi không muốn đến hẻm Mục-Tảo sợ chạm trán Phú-Lợi.
- Nếu anh không muốn đến phố ấy, tôi sẽ đến một mình. Anh đợi một chỗ
nào đó. Độ bẩy giờ tối thì tôi trở lại đón anh.
Chúng tôi hẹn đợi nhau ở đầu cầu Nhà Chung sau Nhà Thờ Đức Bà. Bàn
định xong, chúng tôi tiến vào Ba-Lê.
Đến công trường Ý-Đại-Lợi, chúng tôi chia tay, cảm động như không bao
giờ tái ngộ nữa. Anh cùng Lãnh-Nhi xuống vườn Bách-Thảo, còn tôi đi về
phố Lục-Sinh, cũng ở gần đấy.
Là lần thứ nhất trong sáu tháng nay, tôi đi một mình không có Mã-Tư,
không có Lãnh-Nhi bên cạnh. Tôi cảm thấy trống rỗng và buồn tênh.
Nhưng tôi dẹp ngay được mối buồn đó, tôi chả sắp được gặp Bảo-Liên và
do Bảo-Liên được thấy gia đình tôi hay sao?
Tôi đã ghi vào mẩu giấy tên họ và địa chỉ những chủ trọ của Bảo-Liên.
Nhưng không cần đến vì tôi đã thuộc lòng những tên và chỗ ấy: Hai-Giô,
Ba-Bô và Tư-Chớp.
Tôi vào hẻm Mục-Tảo, qua nhà Hai-Giô trước tiên. Đó là một hàng cơm
nhơm nhếch ở từng dưới một ngôi nhà gác có đủ giường phản. Tôi mạnh
bạo bước vào. Nhưng bằng giọng run run hỏi:
- Ông Bảo-Liên, có ở đây không?
- Bảo-Liên là ai nhỉ?
- Bảo-Liên ở làng Văn-Ông.
Rồi tôi ta hình dáng Bảo-Liên, cái hình dáng ngày xưa của ông ta khi mới ở
Ba-Lê về: mặt khắc nghiệt, đầu vẹo sang bên phải.
- Không có ai như thế. Tôi không biết.
Tôi đi xa hơn chút nữa tìm đến nhà Ba-Bô là một lữ quán có phòng đủ đồ