« Lánh non Thú cam bề ngạ tử hai con Cô-trúc đã về đâu ? Luyện linh-
đan lo chước trường sinh, bốn lão Thương-san đà bặt dấu !
« Mộng tàn nửa gối, bướm Trang Chu giấc hỡi mơ-màng : Xuân lụn
mấy canh, quyên Thục-đế tiếng còn khấp-khởi.
« Tha-thiết bẩy ! một gò hoàng-nhưỡng ngọc lấp hương chôn ; Ảo-não
thay ! mấy cụm bạch vân, mưa sầu gió thảm.
« Ngựa trên ải một may một rủi ; Hươu dưới Tần bên có bên không.
Hán Võ ngọc-đường, người ngọc nọ xưa đà theo gió ; Thạch Sùng kim-cốc,
của-tiền xưa nay đã lấp sương.
« Lao xao cõi trần-ai, trường hoan-lạc gẫm không mấy lúc ; Thắm-
thoát cơn mộng-ảo, đoạn biệt-ly há dễ bao lâu.
« Nghìn năm hồn-phách Hán anh-hùng, hồn-phách mất người kia cũng
mất ; Muôn dặm nước non Đường thổ võ, nước non còn đời ấy đâu còn.
« Thương hỡi thương ! huyền quản cung Tần, chim làm tổ tiếng kêu
vẳng vẳng ; Tiếc ỷ tiếc ! y-quan đời Tấn, biển nên cồn cỏ mọc xanh xanh.
« Cung Tùy xưa chim nói líu-lo, mấy độ xuân về hoa sái lụy ; Đài Ngô
trước hươu nằm ngả-ngớn, đổi ngàn sương ngọn cỏ đeo sầu.
« Ô-giang đêm thẳm hé trăng mành, quạnh-quẽ vó chùng họ Hạng :
Cai-hạ ngày chiều hiu gió mát, phất-phơ ngọn cỏ nàng Ngu.
« Đài vắng Nghiêm Lăng, mấy khúc quanh-co sông chảy tuyết ; Thuyền
không Phạm Lãi, năm hồ lai-láng nước ken mù.
« Cho hay dời-đổi ấy lẽ thường ; Mới biết thảo-ngay là nghĩa cả.
« Lụy rơi non Lịch, Đại Thuấn từng dời tính hai thân ; Sương lọt áo bô,
Tử Khiên lại trọn niềm một thảo.
« Tôn khóc măng, Tường nằm giá, nằn nằn lo giữ đạo con ; Tích dấu
quýt, Cự chôn con, nắm nắm đua đền nghĩa mẹ.
« Trước đền Trụ mổ gan một tấm, muôn kiếp còn danh để tạc bia ;
Dưới thành Ngô treo mắt đôi tròng, nghìn năm hãy người đều nhởm gáy.