VÕ TRƯỜNG TOẢN - Trang 15

« Lánh non Thú cam bề ngạ tử hai con Cô-trúc đã về đâu ? Luyện linh-

đan lo chước trường sinh, bốn lão Thương-san đà bặt dấu !

6

« Mộng tàn nửa gối, bướm Trang Chu giấc hỡi mơ-màng : Xuân lụn

mấy canh, quyên Thục-đế tiếng còn khấp-khởi.

« Tha-thiết bẩy ! một gò hoàng-nhưỡng ngọc lấp hương chôn ; Ảo-não

thay ! mấy cụm bạch vân, mưa sầu gió thảm.

7

« Ngựa trên ải một may một rủi ; Hươu dưới Tần bên có bên không.

Hán Võ ngọc-đường, người ngọc nọ xưa đà theo gió ; Thạch Sùng kim-cốc,
của-tiền xưa nay đã lấp sương.

8

« Lao xao cõi trần-ai, trường hoan-lạc gẫm không mấy lúc ; Thắm-

thoát cơn mộng-ảo, đoạn biệt-ly há dễ bao lâu.

« Nghìn năm hồn-phách Hán anh-hùng, hồn-phách mất người kia cũng

mất ; Muôn dặm nước non Đường thổ võ, nước non còn đời ấy đâu còn.

« Thương hỡi thương ! huyền quản cung Tần, chim làm tổ tiếng kêu

vẳng vẳng ; Tiếc ỷ tiếc ! y-quan đời Tấn, biển nên cồn cỏ mọc xanh xanh.

9

« Cung Tùy xưa chim nói líu-lo, mấy độ xuân về hoa sái lụy ; Đài Ngô

trước hươu nằm ngả-ngớn, đổi ngàn sương ngọn cỏ đeo sầu.

10

« Ô-giang đêm thẳm hé trăng mành, quạnh-quẽ vó chùng họ Hạng :

Cai-hạ ngày chiều hiu gió mát, phất-phơ ngọn cỏ nàng Ngu.

11

« Đài vắng Nghiêm Lăng, mấy khúc quanh-co sông chảy tuyết ; Thuyền

không Phạm Lãi, năm hồ lai-láng nước ken mù.

12

« Cho hay dời-đổi ấy lẽ thường ; Mới biết thảo-ngay là nghĩa cả.

« Lụy rơi non Lịch, Đại Thuấn từng dời tính hai thân ; Sương lọt áo bô,

Tử Khiên lại trọn niềm một thảo.

13

« Tôn khóc măng, Tường nằm giá, nằn nằn lo giữ đạo con ; Tích dấu

quýt, Cự chôn con, nắm nắm đua đền nghĩa mẹ.

14

« Trước đền Trụ mổ gan một tấm, muôn kiếp còn danh để tạc bia ;

Dưới thành Ngô treo mắt đôi tròng, nghìn năm hãy người đều nhởm gáy.

15

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.