II. LÊ QUANG ĐỊNH (CANH-THÌN 1767 – QUÝ-DẬU 1813)
Tư Tri-chỉ. Hiệu Tấn-trai.
Nguyên tổ gốc ở Phú-vinh thuộc Thừa-thiên (Trung-Việt).
Cha tên Sách, làm thủ-ngữ tại Đà-bồng-nguyên, mất trong lúc Lê còn
nhỏ. Nhà nghèo, Lê theo anh là Hiến vào Gia-định, huyện Bình-dương. Có
y-sinh Hoàng đức Thành đem lòng thương, gả con gái cho.
Học-trò Võ Trường Toản. Kết thân với Ngô nhân Tịnh và Trịnh hoài
Đức rồi lập « Bình-dương thi-xã », nổi danh phong-nhã. Lại viết tốt, vẽ tài.
Được tiến cử với chúa Nguyễn-phúc Ánh, làm hàn-lâm-viện chế cáo,
chuyên việc khuyến nông. Sau, sung chức đông-cung thị-giảng rồi thăng
hữu-tham-tri bộ Binh.
Canh-thân 1800, Lê cùng Nguyễn văn Nhân phò đông-cung Cảnh ở giữ
Gia-định.
Nhâm-tuất 1802, lãnh hiệp-trấn Thanh-ba. Rồi thăng thượng-thư bộ
Binh, sung chánh-sứ, cùng đi sứ với hai vị phó-sứ Lê chánh Lộ và Nguyễn
gia Kiết, sang nhà Thanh trần-tình về việc đổi hiệu nước là Nam-việt.
Vua Thanh sai Quảng-tây án-sát-sứ Tề bố Sum sang phong và đổi lại là
Việt-nam thay vì Nam-việt.
Bính-dần 1806, lãnh sắc làm « Đại Việt nhất-thống dư địa chí » gồm 10
quyển, khảo đủ đồ-tịch trong nước, từ kinh sư vào Nam tới Hà-tiên, ra Bắc
tới Lạng-sơn, mỗi mỗi đều biên-chép hết.
Kỷ-tị 1809, đổi làm thượng-thư bộ Hộ kiêm quản Khâm-thiên-giám.
Canh-ngọ 1810, coi sắp-đặt bộ điền-thổ.
Quý-dậu 1813, Lê mất, thọ 54 tuổi. Hôm đưa đám có cả chuyến thuyền
đi hộ tống.
Đến mậu-tí 1852, được thờ ở miếu Trung-hưng công-thần.