ta vào một hồ sơ người mắc hội chứng Munchausen thế thân.
Việc chị ta sử dụng một cách thành thạo những thuật ngữ của bệnh viện: sốt
cao... làm hai ca.
Rồi là hội chứng tím tái.
Phải chăng đó là những thứ còn sót lại sau đợt huấn luyện kỹ thuật hô hấp
của chị ta? Hay là sự hứng thú sử dụng ngôn từ y học một cách không tự
chủ được? Chuyện sống lâu ngày tại nơi này cũng là điều đáng nói. Trong
thời gian làm việc ở đây, tôi đã từng gặp những thợ ống nước, những bà nội
trợ, những người đánh xe và những kế toán. Họ là cha mẹ của những đứa
trẻ bị ốm kinh niên đến nay ăn, ngủ, sống luôn tại bệnh viện và cuối cùng
lời nói của họ chẳng khác gì bác sĩ nội trú năm đầu. Tất nhiên, không ai
trong số bọn họ từng đầu độc con cái mình.
Cindy sờ tay vào bím tóc và nhìn tôi.
Tôi cười, cố gắng tỏ vẻ bình tĩnh đối với chị ta. Trong đầu tôi chứa đầy ngờ
vực về sự chắc chắn của Cindy rằng chị ta và Cassie có thể liên hệ với nhau
ở một mức độ thần giao cách cảm.
Bởi vì những đứa con của người mẹ này đều có cuộc sống không hạnh
phúc, không khoẻ mạnh.
Cindy vẫn nhìn tôi. Tôi biết không thể tiếp tục cân đong mọi sắc thái và tỏ
ra thành thật được.
Tôi liếc nhìn đứa bé nằm ở giường, đúng là một con búp bê bằng sứ không
tráng men.
Hay đó là con búp bê tà thuật của người mẹ này?
- Chị đã làm hết sức mình rồi - Tôi nói - Đó là tất cả những gì mọi người có
thể đòi hỏi ở chị.
Tôi hy vọng lời mình nói ra mang được vẻ chân thành hơn cảm giác của tôi
lúc này. Trước khi Cindy kịp đáp lời thì Cassie đã mở mắt, ngáp ngủ, dụi
mí mắt và lảo đảo ngồi dậy. Hai tay nó lúc này đã được rút ra khỏi chăn.
Cánh tay giấu trong chăn sưng húp và có nhiều vết thâm tím do kim tiêm
gây ra và cả những vết ố vàng của thuốc Betadine.
Cindy chạy ngay tới chỗ con bé và ẵm nó lên:
- Ôi con yêu, ngoan nào.