Tôi lại tiếp tục vẽ.
Một con chó ghẻ, một con vịt có đôi mắt xếch và con ngựa cà nhắc đã làm
con bé chịu để tôi có mặt ở trong phòng.
Tôi dần kéo cái ghế lại gần giường nó, nói chuyện với Cindy về những trò
chơi, đồ chơi và những thức ăn được ưa thích. Khi Cassie dường như chấp
nhận tôi, tôi liền đẩy đẩy cái ghế sát sạt vào tấm nệm và dạy Cindy trò vẽ
hình - hai người chúng tôi thay phiên nhau vẽ thêm những đường nét vào
các hình vẽ. Đó là một kỹ thuật của nhà phân tích tâm lý trẻ thơ nhằm xây
dựng mối quan hệ và đi vào tiềm thức của trẻ mà không làm nó sợ hãi.
Tôi sử dụng Cindy như người trung gian trong khi vẫn thầm theo dõi,
nghiên cứu tâm lý chị ta.
Tôi vẽ một nét gấp và đưa cho Cindy. Chị ta và Cassie châu đầu vào nhau
để vẽ; họ giống như một bức tranh áp phích cho tờ National Bonding Week
(2). Từ một nét gấp ấy, Cindy phát triển thành một căn nhà. Chị ta đưa lại
cho tôi tờ giấy và nói:
- Không tốt lắm, nhưng...
Môi Cassie hơi cong lên một chút, rồi lại xịu xuống. Đôi mắt con bé nhắm
lại và áp chặt mặt vào áo Cindy. Nó túm chặt một bên vú mẹ, bóp mạnh.
Cindy nhẹ nhàng gỡ tay con bé ra và đặt vào lòng mình. Tôi thấy những vết
đâm trên da thịt Cassie. Những dấu chấm nhỏ đen, giống như vết rắn cắn.
Cindy thầm thì nựng nịu con bé. Nó sục sạo, xoay tư thế và túm lấy một
nắm áo của mẹ.
Nó lại ngủ. Cindy hôn lên đỉnh đầu con bé.
Tôi đã được dạy để biết cách hàn gắn những vết thương, biết cách tin vào
mối quan hệ cởi mở, thành thật giữa bác sĩ và bệnh nhân. Trong căn phòng
này, tôi có cảm giác mình là một kẻ bịp bợm.
Rồi tôi nghĩ về những cơn sốt cao và đi ngoài ra máu, những cơn co giật
mạnh tới mức làm cho chiếc giường phát ra tiếng kêu ầm ĩ. Tôi nhớ đứa bé
trai đã chết trong cũi của nó khiến sự thiếu tự tin của tôi đổ vỡ và biến mất.
Tới 10 giờ 45 thì tôi đã ở trong phòng đó được hơn nửa tiếng, phần lớn là