Lăng mà người Minh gọi là Kê Lăng, vì theo
tiếng Trung Quốc hai chữa Kê và Chi gần như
đồng âm. Tên huyện ở đời Trần có thể cũng là
Chi Lăng, nhưng vì chưa có chứng cứ chính
xác nên chúng tôi vẫn để tên Kê Lăng theo
danh sách của nhà Minh. An Nam chí [nguyên]
(q.2) chép ngạch phú cống năm Vĩnh Lạc thứ
15 đã chép một cách giữ thể diện rằng: “Nay
trừ một phủ Thăng Hoa, nhân dân chưa phục
nghiệp”. Sách Hoàng Minh thực lục là do sách
An Nam sử nghiên cứu 1 của Sơn Bản Đại
Lang dẫn. Do An Nam sử nghiên cứu 1 dẫn.
Gần đây người ta gọi là Hiệp Sơn. Sau khi
nhượng đất ở miền sông Soi Rạp và cửa Soi
Rạp cho chúa Nguyễn, người Chân Lạp ở đây
rút về miền biên giới Việt Miên ở khoảng phía
bắc tỉnh Định Tường đời sau, vẫn giữ tên quê
cũ của họ là Soi Rạp. Xem “Essai d’histoire des
populations montaguardes du Sud - Annam
jusqu’en 1945” của Bu-rốt (B. Bouroute),
trong B S E I, premier trimester, 1955; Phủ
man tạp lục, của Nguyễn Tấn. Bắt đầu gọi là
Bắc Kỳ thập tam tỉnh là từ năm Minh Mệnh
thứ 15 (xem Minh đô sử, q. 85, tập 37, mục
“Hà Nội”). Pelliot. “Les deux itinéraires de
Chine en Inde”, BEFEO.IV. Maspéro, Le
Royaame da Champa. Từ trước người ta đều
giải thích việc này là Lê Hoàn cho đào kênh từ
Đan Nê đến sông Bà Hòa. Nhưng xét địa thế,
từ Đan Nê ở Yên Định đến Bà Hòa ở phía nam
huyện Tĩnh Gia nhiều núi non cách trở, không
thể có đường kênh được. Tưởng nên hiểu là