Ven hồ, trên những cầu tre có nhiều bậc mà bậc sau cùng là bắc là là
ngay trên mặt nước, người ta tranh nhau giặt giũ: nào quần, nào áo, nào
chăn, nào màn. Tiếp, họ phơi tất cả ngần ấy thứ lên bãi cỏ hoặc cành cây.
Buổi nắng mới vô tình rốc ra bờ hồ tất cả những cái nhơ bẩn mà thành
Thăng Long đã phải chứa chất một cách nhẫn nhục trong những ngày mưa
rét.
Trong các phố phường, vẻ náo nhiệt lại còn rõ rệt hơn nữa.
Tại các chợ Đồng Xuân và Báo Thiên, kẻ mua, người bán, tuy đã quá
Ngọ, vẫn không ngớt. Những đống bùn lớn trên mặt đường dần dần sẽ lại,
tiếp khô hẳn, nhờ ánh nắng mặt trời và sự giày đạp của chân người. Công
chúng qua lại thỉnh thoảng lại kính cẩn dãn ra hai bên lề đường để nhường
lối cho những cỗ kiệu sơn son của các quan Tham, Chưởng… hoặc những
chiếc võng màu cánh gián của các vị phu nhân. Vì gần gũi với Triều đường
và Phủ liêu, dân đô thành vẫn tự hào với người các Trấn là họ có thể phân
biệt được phẩm cấp của các quan văn võ, do theo nước sơn trên kiệu, võng
của các vị ấy.
Trong lúc mọi người mải miết lăn lưng vào một cuộc náo nhiệt mà thời
tiết vừa làm cho đình trệ thì từ phương Đông, chân trời bỗng vẩn lên một
đám mây đen. Đám mây đó không khác gì một vết dầu loang, lan rất mau
khắp da trời. Người ta đoán là trời sắp đổ mưa nên người lo thu những đồ
vật phơi phóng ở sân vào, kẻ rảo bước về nhà hoặc tìm chỗ ẩn tránh. Chỉ
trong chớp mắt, sự hoạt động của thành Thăng Long lại bị đình hẳn như
chiếc máy đồng hồ, vì hết dây cót mà đứng dừng lại.
Người ta đoán lầm.
Đám mây, đáng lẽ phải đổi thành nước mưa mà dội xuống Long thành,
nhưng nó vẫn cứ bám sát vào da trời, mỗi phút một dày đặc mãi ra. Lâu dần
mặt trời bị phủ kín hẳn, thậm chí hai người không nhận được mặt nhau, tuy
chỉ đứng cách nhau có vài bước. Các nhà giàu sợ quân gian thừa cơ lẻn vào