liễm, triệu tập các cuộc hội họp, gửi tập san do Hội sở chính ở Paris gửi
sang. Tôi ở trong Hội ấy và làm việc cho nó trong khoảng hơn 2 năm. Đến
cuối năm 1939, khi tôi đổi từ Cao Miên về Hà Nội thì không tham gia nữa.
Ngày 24 tháng 11 năm 1939, tôi vào chi hội Tam Điểm (Franc
Maconnesde) ở Cao Miến, mới là hội viên dự bị. Tháng 6 năm 1940,
Pêtanh giải tán hội này. Tôi dính hoạt động trong hội này ở mức thấp, đóng
nguyệt phí, hội họp, nghe nói chuyện, tranh luận. Hội này nói chung chống
Giáo hội và phát triển dân chủ kiểu tư sản. Chi hội Cao Miên gồm toàn
người Pháp, có 2 người Việt (Huy làm dược sĩ và tôi), về Hà Nội, tôi vẫn
thuộc một chi hội nhiều người Pháp, ít người Việt (Vũ Đình Mấn - gần đây
làm Giám đốc Sở Nông lâm Hà Nội, nay ở Hội đồng Kỹ thuật Bộ Nông
nghiệp; Vương Khả Lai; Thẩm Hoàng Tín; Phạm Xuân Độ). Nhưng tôi có
hoàn cảnh sang chi hội khác thuộc Gian de Loge de France, là chi hội
Khổng Phu Tử. Nhân đấy quen biết những hội viên có vai vế như Phạm
Huy Lục, Lê Thăng, Phạm Hữu Chương, Trần Trọng Kim, Trần Văn Lai,
Nguyễn Quang Oánh, Nguyễn Văn Luyện, Nguyễn Xiển, Trần Văn Giáp -
hồi ấy làm việc ở trường Viễn Đông Bác cổ và sau này là cán bộ thuộc viện
Sử học, Phạm Văn Bảng, Nguyễn Đình Quế. Những người này rất thân
Pháp, tôi cũng vậy. Sau này có người đi với Nhật (Trần Trọng Kim), có
người ở lại Hà Nội, hoặc chưa kịp ra bị Pháp giết (Nguyễn Quang Oánh,
Nguyễn Văn Luyện), hoặc bị giam (Trần Văn Lai), có người đi kháng chiến
một thời gian lại trở về Hà Nội rồi vào Nam và đi Pháp (Phạm Huy Lục,
Phạm Hữu Chương, Phạm Xuân Độ), có người kháng chiến đến cùng và
nay là cán bộ tốt của nhà nước (Nguyễn Xiển, Hoàng Minh Giám, Vũ Đình
Mấn, Trần Văn Giáp).
[...]
Cuối năm 1939, tôi cùng một số anh em ở Nam Vang diễn vở kịch “Cám
ơn ông” của Toan Ánh để lấy tiền giúp chiến tranh cho Pháp.
Trong các năm Nhật chiếm Đông Dương, tôi vẫn ôm ấp hy vọng đi Paris
thi bằng Cử nhân Sử học.